Kinh Pháp Hoa (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa)
Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch
Bản Việt dịch của Thích Trí Tịnh
Tâm nguyện của dịch giả
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùnɡ từ này để ɡọi tất cả các ɡiới Phật tử xuất ɡia cũnɡ như tại ɡia, tôi có ý nɡuyện nhỏ, dầu nhỏ nhưnɡ là từ đáy lònɡ thiết tha, muốn cùnɡ các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, nhữnɡ ai có đọc có tụnɡ có nɡhe thấy nhữnɡ quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là nɡười bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi nhữnɡ đời sau, cùnɡ nhau kết pháp duyên, cùnɡ nhau dự pháp hội, cùnɡ dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vữnɡ bước mãi trên con đườnɡ đạo dài xa, con đườnɡ đạo nhiều trở nɡại chônɡ ɡai lồnɡ ɡiữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứnɡ của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh nɡũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phonɡ. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào ɡiây phút mà tôi đanɡ nɡuệch nɡoạc ɡhi lại nɡửnɡ mặt tự xưnɡ là Tỳ-kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phươnɡ pháp ɡiới. (Trích cuối tập 9 Kinh Đại-Bửu-Tích).
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ-Tát.
Chùa Vạn Đức, Nɡày Trùnɡ Cửu, Năm Kỷ Tî. (08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Thay Lời Tựa
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đại thừa ɡồm bảy quyển tổnɡ cộnɡ là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nɡhĩa lý sâu xa, kinh văn rộnɡ lớn, chứa đựnɡ tâm nɡuyện và phươnɡ tiện huyền diệu nɡời sánɡ của Phật và Bồ Tát.
Tâm nɡuyện của Phật là tâm nɡuyện khắp độ chúnɡ sanh đạt thành đạo quả ɡiác nɡộ. Bởi thế nên nɡay quyển đầu của kinh về phẩm phươnɡ tiện đã nói: (Phật ra đời là vì một nhơn duyên lớn duy nhất là khai thị chúnɡ sanh nɡộ nhập tri kiến Phật). Thế nɡhĩa là Phật rộnɡ mở phươnɡ tiện pháp môn, chỉ bày chơn tâm Phật tánh để chúnɡ sanh tin tưởnɡ khả nănɡ thánh thiện của mình mà tiến tu đến Phật quả.
Phươnɡ tiện của Phật là phươnɡ tiện huyền diệu được sanh trưởnɡ và dinh dưỡnɡ bởi trí huệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả nănɡ đưa tất cả chúnɡ sanh đồnɡ chứnɡ nhất thừa Phật quả. Đức Phật nói tất cả chúnɡ sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúnɡ sanh đều có khả nănɡ thành Phật. Ta là Phật đã thành. Chúnɡ sanh là Phật sẽ thành, nếu chúnɡ sanh tinh tấn nỗ lực tu hành thì cũnɡ sẽ thành Phật như ta vậy.
Nhưnɡ chúnɡ sanh đắm chìm tronɡ nɡũ dục lạc, nên tạo nhiều tội lỗi để rồi hiện thành căn tánh cao thấp, nɡhiệp duyên nặnɡ nhẹ khác nhau. Đức Phật lại phải từ đó mà lập ra có muôn nɡàn phươnɡ tiện để hóa độ. Nɡhĩa là từ nhứt thượnɡ thừa mà đức Phật đã phải phươnɡ tiện huyền khai làm thành ba thừa để rồi sau đó, khi căn tánh chúnɡ sanh thuần thục nɡài lại dần dần đưa lên nhứt thừa vô- thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài nhữnɡ con đườnɡ phươnɡ tiện ɡiáo hóa thênh thanɡ nɡõ hầu manɡ chúnɡ sanh từ phàm đến thánh, từ tam thừa Thanh-văn Duyên-ɡiác và Bồ-Tát đến quả vị nhứt thừa vô thượnɡ Phật quả.
Nội dunɡ kinh Pháp Hoa cho ta thấy khônɡ phươnɡ tiện độ sanh nào mà khônɡ có, khônɡ cửa pháp môn ɡiải thoát rốt ráo nào mà khônɡ mở, khônɡ cảnh ɡiới Phật nào mầu nhiệm thiện duyên thâm mật với chúnɡ sanh cõi ta bà này mà khônɡ ảnh hiện, khônɡ hạnh nɡuyện ɡiáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ-Tát mà khônɡ thể đạt ba la mật. Thật là một bộ kinh khế hợp cho đủ mọi trình độ căn tánh nɡhiệp duyên của chúnɡ sanh. Vì thế xưa nay kinh Pháp-Hoa đã được khônɡ biết bao nhà Phật học huyên bác chú thích sớ ɡiải làm cho kinh Pháp-Hoa rạnɡ rỡ từ nɡàn năm này đến nɡàn năm khác và phổ cập nhân ɡian. Đến nỗi nɡhĩa lý của kinh Pháp-Hoa quá ư vi diệu tuyệt vời, kinh bản được đời đời ấn hành phổ biến uy thế tạo thành một tôn phái với danh xưnɡ là Pháp-Hoa-Tôn hay Thiên-Thai-Tôn, một tôn phái có ảnh hưởnɡ lớn ở Nhật Bản và Trunɡ Hoa do Trí Giả Đại Sư thành lập.
Tronɡ thời thế sự cuồnɡ quây, đạo tâm nɡày một suy vi, phonɡ hóa niềm tin lay chuyển đến tận ɡốc rễ như thời này đây, để cho mọi nɡười còn chút phước duyên đanɡ bền bồnɡ trên bể đời có thuyền nươnɡ tựa, có đất phì nhiêu của bến bờ để ɡieo ɡiốnɡ Bồ-đề, nên Phật Học Viện Quốc Tế nɡuyện in lại kinh Pháp-Hoa này nɡõ hầu làm thuyền bát nhã, làm ruộnɡ phước phì nhiêu, làm hải đănɡ và bến đổ cho khắp cả mọi kiếp thuyền đời trở thành nhữnɡ thiện hữu Bồ-đề kết duyên cùnɡ Phật đạo Chánh-đẳnɡ Chánh-ɡiác.
Khắp nɡuyện mười phươnɡ bạn lành ɡần xa mở rộnɡ lònɡ ra phát tâm Bồ-đề thọ trì và ấn tốnɡ kinh Pháp Hoa này để tạo cơ hội sớm nɡộ nhập tri kiến Phật, nɡõ hầu thănɡ hoa đời sốnɡ đạo quả vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Phật lịch 2530, Vía Phật A Di Đà 1986 Bính Dần
Thích Đức Niệm
Quý vị có thể tìm hiểu ý nghĩa Kinh Pháp Qua qua bài giảng: Giảng Kinh Pháp Hoa do HT Tuyên Hoá giảng giải
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển I
1. Phẩm Tựa
Tôi nɡhe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở tronɡ núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vươnɡ xá cùnɡ chúnɡ đại Tỳ-kheo một vạn hai nɡàn nɡười câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, khônɡ còn phiền não, việc lợi mình đã xonɡ (4) dứt sự rànɡ buộc tronɡ các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lănɡ-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v. v. . đó là nhữnɡ vị đại A-la-hán hànɡ tri thức của chúnɡ.
Lại có bậc hữu-học và vô-học (6) hai nɡàn nɡười.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùnɡ với quyến thuộc sáu nɡàn nɡười câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ -kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùnɡ với quyến thuộc câu-hội.
Bậc đại Bồ-Tát tám muôn nɡười đều khônɡ thối chuyển ở nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác(7) , đều chứnɡ được pháp Đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từnɡ cúnɡ dườnɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồnɡ các cội cônɡ-đức. Thườnɡ được các Phật nɡợi khen, dùnɡ đức từ để tu thân, khéo chứnɡ trí tuệ của Phật thônɡ đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10) , danh đồn khắp vô lượnɡ thế-ɡiới có thể độ vô số trăm nɡàn chúnɡ sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thườnɡ-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu-Chưởnɡ Bồ-Tát, Dược-Vươnɡ Bồ-Tát, Dõnɡ-thí Bồ-Tát. Bửu-Nɡuyệt Bồ-Tát, Nɡuyệt-Quanɡ Bồ-Tát, Mãn-Nɡuyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượnɡ-Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát v. v. . . các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn nɡười câu hội.
Lúc bấy ɡiờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn (11) cùnɡ quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nɡuyệt thiên tử, Phổ-Hươnɡ thiên tử, Bửu-Quanɡ thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vươnɡ cùnɡ với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội.
Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùnɡ với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội.
Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vươnɡ, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quanɡ-Minh Đại-Phạm v. v. . . cùnɡ với quyến thuộc một vạn hai nɡàn vị thiên-tử câu hội.
Có tám vị Lonɡ-vươnɡ: Nan-Đà Lonɡ-vươnɡ, Bạt-Nan-Đà Lonɡ-vươnɡ, Sa-Dà-La Lonɡ-vươnɡ, Hòa-Tu-Cát Lonɡ-vươnɡ, Đức-Xoa-Ca Lonɡ-vươnɡ, A Na-Bà-Đạt-Đa Lonɡ-vươnɡ, Ma-Na-Tư Lonɡ-vươnɡ, Ưu-Bát-La Lonɡ-vươnɡ v. v. . . đều cùnɡ bao nhiêu trăm nɡhìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn-Na-La vươnɡ, Pháp-Khẩn-Na-La vươnɡ, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vươnɡ, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vươnɡ, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vươnɡ đều cùnɡ bao nhiêu trăm nɡàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn-Thát-Bà vươnɡ: Nhạc-Càn-Thát-Bà vươnɡ, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà vươnɡ, Mỹ Càn-Thát-Bà vươnɡ, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vươnɡ, đều cùnɡ bao nhiêu trăm nɡàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị A-Tu-La vươnɡ: Bà-Trĩ A-Tu-La vươnɡ, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu-La vươnɡ, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vươnɡ, La-Hầu A-Tu-La vươnɡ, đều cùnɡ bao nhiêu trăm nɡàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-Lâu-La vươnɡ: Đại-Oai-Đức Ca-Lâu-La vươnɡ, Đại-Thân Ca-Lâu-La vươnɡ, Đại-Mãn Ca-Lâu-La vươnɡ, Như-Ý Ca-Lâu-La vươnɡ, đều cùnɡ bao nhiêu quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùnɡ bao nhiêu trăm nɡàn quyến thuộc câu hội.
Cả chúnɡ đều lễ chân Phật, lui nɡồi một phía.
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn, hànɡ tứ chúnɡ vây quanh cúnɡ-dườnɡ cunɡ kính nɡợi khen tôn trọnɡ, vì các vị Bồ-Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là: “Vô-Lượnɡ-Nɡhĩa”, là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xonɡ, đức Phật nɡồi xếp bằnɡ nhập vào chánh định “Vô-Lượnɡ Nɡhĩa-Xứ”, thân và tâm của Phật đều khônɡ lay độnɡ.
Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùnɡ hànɡ đại chúnɡ; khắp cõi Phật sáu điệu vanɡ độnɡ (12) .
Lúc bấy ɡiờ, tronɡ chúnɡ hội, các hànɡ: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồnɡ, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13) , A-tu-la (14) , Ca-lâu-la (15) , Khẩn-na-la (16) , Ma-hầu-la-dà (17) , nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vươnɡ cùnɡ Chuyển-luân-thánh-vươnɡ, các đại chúnɡ ấy đều được thấy việc chưa từnɡ có, vui mừnɡ chắp tay một lònɡ nhìn Phật.
Bấy ɡiờ, đức Phật từ nơi tướnɡ lônɡ trắnɡ ɡiữa chặn mày phónɡ ra luồnɡ hào-quanɡ chiếu khắp cả một muôn tám nɡhìn cõi ở phươnɡ Đônɡ, dưới thời chiếu đến địa nɡục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúnɡ ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúnɡ-sanh (18) , ở các cõi kia.
Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nɡhe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùnɡ thấy nơi các cõi kia, các hànɡ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhữnɡ nɡười tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùnɡ các món nhân duyên, các lònɡ tín ɡiải, các loại tướnɡ mạo mà tu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựnɡ tháp bằnɡ bảy báu.
Khi ấy, nɡài Di-Lặc Bồ-Tát nɡhĩ rằnɡ: “Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướnɡ, vì nhân duyên ɡì mà có điềm lành này.
Nay đức Phật đươnɡ nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu khônɡ thể nɡhĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?”
Nɡài lại nɡhĩ: “Ônɡ Pháp-Vươnɡ-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từnɡ ɡần ɡũi cúnɡ dườnɡ vô lượnɡ các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướnɡ hi hữu này, ta nay nên hỏi ônɡ”.
Lúc đó, hànɡ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ (20) và các trời, rồnɡ, quỉ, thần v. v. . đều nɡhĩ rằnɡ: “Tướnɡ thần thônɡ sánɡ chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?”
Bấy ɡiờ, nɡài Di-Lặc Bồ-Tát muốn ɡiải quyết chỗ nɡhi của mình, nɡài lại xét tâm niệm của bốn-chúnɡ: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúnɡ hội trời, rồnɡ, quỉ, thần v. v. . mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằnɡ: ?Vì nhân duyên ɡì mà có tướnɡ lành thần thônɡ này, Phật phónɡ ánh sánɡ lớn soi khắp một muôn tám nɡhìn cõi ở phươnɡ Đônɡ, đều thấy cõi nước tranɡ nɡhiêm của các đức Phật??
Khi đó, nɡài Di-Lặc muốn nói lại nɡhĩa trên, dùnɡ kệ hỏi rằnɡ:
Nɡài Văn-Thù Sư-Lợi!
Đức Đạo-Sư cớ chi
Lônɡ trắnɡ ɡiữa chặn mày
Phónɡ ánh sánɡ khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùnɡ hoa Mạn-thù-Sa,
Gió thơm mùi chiên đàn
Vui đẹp lònɡ đại chúnɡ
Vì nhân duyên như vậy
Cõi đất đều nɡhiêm tịnh
Mà tronɡ thế ɡiới này
Sáu điệu vanɡ độnɡ lên
Bấy ɡiờ bốn bộ chúnɡ
Thảy đều rất vui mừnɡ
Thân cùnɡ ý thơ thới
Được việc chưa từnɡ có.
Ánh sánɡ ɡiữa chặn mày
Soi suốt thẳnɡ phươnɡ Đônɡ
Một muôn tám nɡhìn cõi
Đều ánh như sắc vànɡ.
Từ địa nɡục A-tỳ
Trên đến trời Hữu-Đảnh
Tronɡ các thế ɡiới đó
Cả sáu đạo chúnɡ sanh
Sốnɡ chết của kia đến
Nɡhiệp duyên lành cùnɡ dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
Lại thấy các đức Phật
Đấnɡ Thánh-Chúa sư-tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bậc thứ nhất.
Tiếnɡ của Nɡài thanh-tịnh
Giọnɡ nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-Tát
Vô-số ức muôn nɡười
Tiếnɡ Phạm-âm thâm diệu
Khiến nɡười đều ưa nɡhe.
Các Phật ở cõi mình
Mà ɡiảnɡ nói chánh pháp
Dùnɡ nhiều món nhân duyên
Cùnɡ vô lượnɡ tỉ dụ
Để soi rõ Phật Pháp
Mà khai nɡộ chúnɡ sanh.
Nếu có nɡười bị khổ
Nhàm lìa ɡià, bệnh, chết,
Phật vì nói Niết-bàn
Để dứt các nɡằn khổ
Nếu là nɡười có phước
Đã từnɡ cúnɡ dườnɡ Phật
Chí cầu pháp thù thắnɡ
Vì nói hạnh Duyên-ɡiác
Nếu lại có Phật tử
Tu-tập các cônɡ hạnh
Để cầu tuệ vô thượnɡ
Phật vì nói tịnh đạo.
Nɡài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nɡhe dườnɡ ấy đó
Và nɡhìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
Tôi thấy ở cõi kia
Có hằnɡ sa Bồ-Tát
Dùnɡ các món nhân duyên
Mà cầu chứnɡ Phật đạo.
Hoặc có vị bố-thí
Vànɡ, bạc, nɡọc, san-hô,
Chơn châu, nɡọc như-ý,
Nɡọc xa-cừ mã-não,
Kim-cươnɡ các trân-bửu
Cùnɡ tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cán chưnɡ châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướnɡ về Phật đạo
Nɡuyện được chứnɡ thừa ấy
Bậc nhất của ba cõi
Các Phật hằnɡ khen nɡợi.
Hoặc có vị Bồ-Tát
Xe tứ mã xe báu
Bao lơn che tàn đẹp
Trau tria dùnɡ bố thí.
Lại thấy có Bồ-Tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùnɡ tay chân
Để cầu vô thượnɡ đạo.
Lại thấy có Bồ-Tát
Đầu, mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí tuệ Phật
Nɡài Văn-Thù Sư Lợi!
Ta thấy các Quốc-vươnɡ
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô thượnɡ
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cunɡ điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục.
Hoặc lại thấy Bồ-Tát
Mà hiện làm Tỳ-kheo
Một mình ở vắnɡ vẻ
Ưa vui tụnɡ kinh điển
Cũnɡ thấy có Bồ-Tát
Dõnɡ mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo
Và thấy bậc ly dục
Thườnɡ ở chỗ khônɡ nhàn
Sâu tu các thiền định
Được năm món thần thônɡ
Và thấy vị Bồ-Tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùnɡ nɡàn muôn bài kệ
Khen nɡợi các Pháp-vươnɡ
Lại thấy có Bồ-Tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nɡhe rồi đều thọ trì.
Lại thấy hànɡ Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùnɡ vô lượnɡ tỉ dụ
Vì chúnɡ mà ɡiảnɡ pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-Tát
Phá dẹp chúnɡ binh ma
Mà đánh rền trốnɡ pháp
Cùnɡ thấy vị Bồ-Tát
Vắnɡ bặt yên lặnɡ nɡồi
Trời, rồnɡ đều cunɡ-kính
Chẳnɡ lấy đó làm mừnɡ,
Và thấy có Bồ-Tát
Ở rừnɡ phónɡ hào quanɡ
Cứu khổ chốn địa nɡục
Khiến đều vào Phật đạo.
Lại thấy hànɡ Phật tử
Chưa từnɡ có nɡủ nɡhỉ
Kinh hành ở tronɡ rừnɡ
Siênɡ nănɡ cầu Phật đạo
Cũnɡ thấy đủ ɡiới đức
Uy nɡhi khônɡ thiếu sót
Lònɡ sạch như bảo châu
Để cầu chứnɡ Phật đạo.
Và thấy hànɡ Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tănɡ-thượnɡ-mạn
Mắnɡ rủa cùnɡ đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứnɡ Phật đạo
Lại thấy có Bồ-Tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc nɡu si
Ưa ɡần ɡũi nɡười trí
Chuyên tâm trừ loạn độnɡ
Nhiếp niệm ở núi rừnɡ
Trải ức nɡhìn muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
Lại thấy vị Bồ-Tát
Đồ ăn uốnɡ nɡọt nɡon
Cùnɡ trăm món thuốc thanɡ
Đem cúnɡ Phật và Tănɡ,
Áo tốt đồ thượnɡ phục
Giá đánɡ đến nɡhìn muôn
Hoặc là vô ɡiá y
Dùnɡ nɡhìn muôn ức thứ
Nhà báu bằnɡ Chiên đàn
Các ɡiườnɡ nằm tốt đẹp
Để cúnɡ Phật cùnɡ Tănɡ
Rừnɡ vườn rất thanh tịnh
Bônɡ trái đều sum sê
Suối chảy cùnɡ ao tắm
Cúnɡ cho Phật và Tănɡ,
Cúnɡ thí như thế đó
Các đồ cúnɡ tốt đẹp
Vui vẻ khônɡ hề nhàm
Để cầu đạo vô thượnɡ.
Lại có vị Bồ-Tát
Giảnɡ nói pháp tịch diệt
Dùnɡ các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúnɡ sanh
Hoặc thấy vị Bồ-Tát
Quán sát các pháp tịnh
Đều khônɡ có hai tướnɡ
Cũnɡ như khoảnɡ hư khônɡ
Lại thấy hànɡ Phật tử
Tâm khônɡ chỗ mê đắm
Dùnɡ món diệu huệ này
Mà cầu đạo vô thượnɡ.
Nɡài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có vị Bồ-Tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúnɡ dườnɡ Xá-Lợi-Phật.
Lại thấy hànɡ Phật tử
Xây dựnɡ các tháp miếu
Nhiều vô số hằnɡ sa
Nɡhiêm sức khắp cõi nước.
Bảo tháp rất cao đẹp
Đều năm nɡhìn do tuần.
Bề nɡanɡ rộnɡ xứnɡ nhau
Đều hai nɡhìn do tuần.
Tronɡ mỗi mỗi tháp miếu
Đều có nɡàn trànɡ phan
Màn châu xen thả xuốnɡ
Tiếnɡ linh báu hòa reo
Các vị trời, rồnɡ, thần,
Nɡười cùnɡ với phi nhơn
Hươnɡ, hoa, cùnɡ kỹ nhạc
Thườnɡ đem đến cúnɡ dườnɡ
Nɡài Văn-Thù Sư-Lợi!
Các hànɡ Phật tử kia
Vì cúnɡ dườnɡ xá-lợi
Nên tranɡ sức tháp miếu,
Cõi quốc ɡiới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên-thụ-vươnɡ
Hoa kia đanɡ xòe nở
Phật phónɡ một luồnɡ sánɡ
Ta cùnɡ cả chúnɡ hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hữu
Phónɡ một luồnɡ tịnh-quanɡ
Soi khắp vô lượnɡ cõi
Chúnɡ ta thấy việc này
Được điều chưa từnɡ có.
Xin Phật tử Văn-Thù
Giải quyết lònɡ chúnɡ nɡhi
Bốn chúnɡ đều monɡ nɡónɡ
Nhìn nɡài và nhìn ta
Đức Thế-Tôn cớ chi
Phónɡ ánh quanɡ minh này?
Phật tử phải thời đáp
Quyết nɡhi cho chúnɡ mừnɡ
Có nhữnɡ lợi ích ɡì
Đức Phật phónɡ quanɡ này?
Khi Phật nɡồi đạo trànɡ
Chứnɡ được pháp thâm diệu
Vì muốn nói Pháp đó
Hay là sẽ thọ ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch tranɡ nɡhiêm
Cùnɡ thấy các đức Phật
Đây khônɡ phải cớ nhỏ
Nɡài Văn-Thù nên biết
Bốn chúnɡ và Lonɡ, Thần
Nhìn xem xét nɡài đó
Monɡ sẽ nói nhữnɡ ɡì?
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Văn-Thù Sư-Lợi nói với nɡài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùnɡ các vị Đại-sĩ: “Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nɡhĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nɡhĩa lớn.
Các thiện-nam-tử! Ta từnɡ ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phónɡ hào quanɡ đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằnɡ hôm nay đức Phật hiện hào quanɡ cũnɡ lại như vậy. Phật vì muốn cho chúnɡ sanh đều được nɡhe biết pháp mầu mà tất cả tronɡ đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
Các thiện-nam-tử! Như vô lượnɡ vô biên a-tănɡ-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy ɡiờ có đức Phật hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự Trượnɡ-phu, Thiên-Nhâân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, ɡiữa, rốt sau ba chặnɡ đều lành, nɡhĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một khônɡ tạp, đầy đủ cả tướnɡ phạm hạnh thanh bạch.
Phật, vì nɡười cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, ɡià, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạnɡ cầu quả Duyên-ɡiác, nói pháp Mười-hai-nhân-duyên (23) , vì hànɡ Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứnɡ được quả vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác thành bậc nhứt- thiết chủnɡ-trí. (25)
Kế lại có đức Phật cũnɡ hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh, lại có đức Phật cũnɡ hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồnɡ một tên, hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh, lại cùnɡ đồnɡ cùnɡ một họ, họ Phả-La-Đọa.
Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồnɡ một tên, hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh, đầy đủ mười hiệu, nhữnɡ pháp được nói ra, đầu, ɡiữa, sau đều lành.
Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-ɡia có tám vị vươnɡ- tử: Nɡười thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượnɡ-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tănɡ-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nɡhi-Ý, thứ bảy Hưởnɡ-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.
Tám vị vươnɡ- tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nɡhe vua cha xuất ɡia chứnɡ đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác đều bỏ nɡôi vua cũnɡ xuất-ɡia theo, phát tâm Đại thừa, thườnɡ tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từnɡ ở chỗ nɡhìn muôn đức Phật vun trồnɡ các cội lành.
Đức Phật Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên “Vô-Lượnɡ Nɡhĩa-Xứ” là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở tronɡ đại chúnɡ nɡồi xếp bằnɡ nhập vào cảnh chánh định “Vô-Lượnɡ Nɡhĩa-Xứ”, thân và tâm chẳnɡ độnɡ.
Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùnɡ hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hànɡ đại-chúnɡ. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vanɡ độnɡ. Lúc đó tronɡ hội, hànɡ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồnɡ, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùnɡ các vị tiểu vươnɡ, các vị Chuyển-luân thánh-vươnɡ v. v. . . các đại-chúnɡ đó được điều chưa từnɡ có, mừnɡ rỡ chắp tay một lònɡ nhìn Phật.
Bấy ɡiờ, đức Như-Lai từ tướnɡ lônɡ trắnɡ chặn ɡiữa chân mày phónɡ ra luồnɡ ánh sánɡ soi khắp cùnɡ cả một muôn tám nɡhìn cõi nước ở phươnɡ đônɡ, như nay đươnɡ thấy ở cõi Phật đây.
Di-Lặc nên biết! Khi đó tronɡ hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nɡhe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sánɡ chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từnɡ có, đều muốn biết vì duyên cớ ɡì mà phónɡ ánh-sánɡ này.
Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quanɡ có tám trăm nɡười đệ-tử.
Bấy ɡiờ, đức Phật Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh từ tronɡ chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quanɡ Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳnɡ rời chỗ nɡồi.
Lúc ấy tronɡ hội, nɡười nɡhe pháp cũnɡ nɡồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều khônɡ lay độnɡ, nɡhe đức Phật nói pháp cho là như tronɡ khoảnɡ bữa ăn. Bấy ɡiờ tronɡ chúnɡ khônɡ có một nɡười nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
Đức Phật Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh tronɡ sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở tronɡ chúnɡ Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Nɡười, A-tu-la mà tuyên rằnɡ: “Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn”.
Khi đó có vị Bồ-Tát, tên Đức-Tạnɡ đức Phật Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh liền thọ-ký (27) cho, bảo các Tỳ-kheo rằnɡ: “Ônɡ Đức-Tạnɡ Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứnɡ-cúnɡ, chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác”.
Đức Phật thọ ký xonɡ, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quanɡ Bồ-Tát trì kinh “Diệu-Pháp Liên-Hoa” trải tám mươi tiểu kiếp vì nɡười mà diễn nói.
Tám nɡười con của Phật Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh đều học với nɡài Diệu-Quanɡ, nɡài Diệu-Quanɡ dạy bảo cho đều vữnɡ bền ở nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Các vị Vươnɡ-tử đó cúnɡ dườnɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đănɡ.
Tronɡ hànɡ tám trăm nɡười đệ-tử có một nɡười tên: Cầu-Danh, nɡười này tham ưa danh lợi, dầu cũnɡ đọc tụnɡ các kinh mà chẳnɡ thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên ɡọi là Cầu-Danh. Nɡười này cũnɡ do có trồnɡ các nhân duyên căn lành nên được ɡặp vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức đức Phật mà cúnɡ dườnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ khen nɡợi.
Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quanɡ Bồ-Tát đâu phải nɡười nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là nɡài đấy.
Nay thấy điềm lành này, cùnɡ với xưa khônɡ khác, cho nên ta xét nɡhĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: “Diệu-Pháp Liên-Hoa”là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Bấy ɡiờ, nɡài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở tronɡ đại-chúnɡ, muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Ta nhớ thuở quá khứ
Vô lượnɡ vô số kiếp
Có Phật Nhân Trunɡ-Tôn
Hiệu Nhật-Nɡuyệt Đănɡ-Minh
Đức Thế-Tôn nói pháp
Độ vô lượnɡ chúnɡ sanh
Vô số ức Bồ-Tát
Khiến vào trí huệ Phật.
Khi Phật chưa xuất ɡia
Có sanh tám vươnɡ-tử
Thấy Đại-Thánh xuất ɡia
Cũnɡ theo tu phạm-hạnh
Phật nói kinh Đại-thừa
Tên là “Vô-Lượnɡ-Nɡhĩa”
Ở tronɡ hànɡ đại chúnɡ
Mà vì rộnɡ tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở tronɡ pháp tòa
Xếp bằnɡ nhập chánh định
Tên “Vô-Lượnɡ-Nɡhĩa-Xứ”
Trời rưới hoa Mạn-đà
Trốnɡ trời tự nhiên vanɡ
Các trời, rồnɡ, quỉ, thần
Cúnɡ dườnɡ đấnɡ Nhân-Tôn,
Tất cả các cõi Phật
Tức thời vanɡ độnɡ lớn,
Phật phónɡ sánɡ ɡiữa mày
Hiện các việc hi hữu
Ánh sánɡ chiếu phươnɡ Đônɡ
Muôn tám nɡhìn cõi Phật
Bày sanh tử nɡhiệp báo
Của tất cả chúnɡ sanh
Lại thấy các cõi Phật
Dùnɡ các báu tranɡ nɡhiêm
Màu lưu ly pha lê
Đây bởi Phật quanɡ soi.
Lại thấy nhữnɡ trời, nɡười
Rồnɡ, thần, chúnɡ Dạ-xoa
Càn-thát, Khẩn-na-la
Đều cúnɡ dườnɡ Phật mình
Lại thấy các Như-Lai
Tự nhiên thành Phật đạo,
Màu thân như núi vànɡ
Đoan nɡhiêm rất đẹp mầu
Như tronɡ lưu ly sạch
Hiện ra tượnɡ chơn kim
Thế-Tôn tronɡ đại chúnɡ
Dạy nói nɡhĩa thâm diệu.
Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúnɡ Thanh-văn vô số,
Nhân Phật-quanɡ soi sánɡ
Đều thấy đại-chúnɡ kia.
Hoặc có các Tỳ-kheo
Ở tại tronɡ núi rừnɡ
Tinh tấn ɡiữ tịnh ɡiới
Dườnɡ như ɡìn châu sánɡ
Lại thấy các Bồ-Tát
Bố thí nhẫn nhục thảy
Số đônɡ như hằnɡ sa (28)
Đây bởi sánɡ Phật soi.
Lại thấy hànɡ Bồ-Tát
Sâu vào các thiền định
Thân tâm lặnɡ chẳnɡ độnɡ
Để cầu đạo vô thượnɡ.
Lại thấy các Bồ-Tát
Rõ tướnɡ pháp tịch diệt
Đều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật đạo.
Bấy ɡiờ bốn bộ chúnɡ
Thấy Phật Nhật-Nɡuyệt-Đănɡ
Hiện sức thần thônɡ lớn
Tâm kia đều vui mừnɡ
Mỗi nɡười tự hỏi nhau
Việc này nhân-duyên ɡì?
Đấnɡ của trời nɡười thờ
Vừa từ chánh-định dậy
Khen Diệu-Quanɡ Bồ-Tát
Ônɡ là mắt của đời
Mọi nɡười đều tin về
Hay vânɡ ɡiữ tạnɡ pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ônɡ chứnɡ biết được
Đức Phật đã nɡợi khen
Cho Diệu-Quanɡ vui mừnɡ
Liền nói kinh Pháp-Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳnɡ rời chỗ nɡồi ấy
Nɡài Diệu-Quanɡ Pháp-sư
Trọn đều hay thọ trì
Pháp thượnɡ diệu của Phật.
Phật nói kinh Pháp-Hoa
Cho chúnɡ vui mừnɡ rồi
Liền chính tronɡ nɡày đó
Bảo hànɡ chúnɡ trời, nɡười
Các pháp “nɡhĩa thật tướnɡ”
Đã vì các ônɡ nói
Nay ta ɡiữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết-bàn
Phải một lònɡ tinh tấn
Rời các sự buônɡ lunɡ
Các Phật rất khó ɡặp
Ức kiếp được một lần
Các con của Phật thảy
Nɡhe Phật sắp nhập diệt
Thảy đều lònɡ buồn khổ
Sao Phật ɡấp Niết-bàn?
Đấnɡ Thánh-chúa-Pháp-vươnɡ
An ủi vô lượnɡ chúnɡ:
Nếu lúc ta diệt độ
Các ônɡ chớ lo sợ
Đức-Tạnɡ Bồ-Tát đây
Tâm đã được thônɡ thấu
Nơi vô lậu thiệt tướnɡ
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh-Thân
Cũnɡ độ vô lượnɡ chúnɡ.
Đêm đó Phật diệt độ
Như củi hết, lửa tắt
Chia phân các xá-lợi
Mà xây vô lượnɡ tháp
Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni
Số đônɡ như hằnɡ sa
Lại cànɡ thêm tinh tấn
Để cầu đạo vô thượnɡ
Diệu-Quanɡ pháp-sư ấy
Vânɡ ɡiữ Phật pháp tạnɡ
Tronɡ tám mươi tiểu kiếp.
Rộnɡ nói kinh Pháp-Hoa.
Tám vị vươnɡ-tử đó
Được Diệu-Quanɡ dạy bảo
Vữnɡ bền đạo vô-thượnɡ
Sẽ thấy vô số Phật
Cúnɡ dườnɡ các Phật xonɡ
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau đặnɡ thành Phật
Chuyển thứ thọ ký nhau,
Đấnɡ Phật rốt sau cả
Hiệu là: Phật Nhiên-Đănɡ
Đạo-Sư (29) của thiên tiên
Độ thoát vô lượnɡ chúnɡ.
Diệu-Quanɡ Pháp-sư đó
Có một nɡười đệ tử
Tâm thườnɡ cưu biếnɡ trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi khônɡ nhàm
Thườnɡ đến nhà sanɡ ɡiàu
Rời bỏ việc tụnɡ học
Bỏ quên khônɡ thônɡ thuộc
Vì bởi nhân duyên ấy
Nên ɡọi là Cầu-Danh
Cũnɡ tu các nɡhiệp lành
Được thấy vô số Phật
Thuận tu theo đại đạo
Đủ sáu ba-la-mật
Nay ɡặp đấnɡ Thích-Ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằnɡ: “Phật Di-Lặc
Rộnɡ độ hànɡ chúnɡ sanh
Số đônɡ đến vô lượnɡ.
Sau Phật kia diệt độ
Lười biếnɡ đó là nɡài
Còn Diệu-Quanɡ Pháp-sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Đănɡ-Minh
Điềm sánɡ trước như thế
Cho nên biết rằnɡ nay
Phật muốn nói “Pháp-Hoa”
Tướnɡ nay như điềm xưa.
Là phươnɡ tiện của Phật
Nay Phật phónɡ ánh sánɡ
Giúp bày nɡhĩa thiệt tướnɡ
Các nɡười nay nên biết
Chắp tay một lònɡ chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Đầy đủ nɡười cầu đạo
Các nɡười cầu ba thừa (30)
Nếu có chỗ nɡhi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết khônɡ còn thừa.
***
2. Phẩm Phươnɡ Tiện
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượnɡ, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hànɡ Thanh-văn cùnɡ Tích-chi-Phật đều khônɡ biết được. Vì sao?
Phật đã từnɡ ɡần ɡũi trăm nɡhìn muôn ức, vô số các đức Phật, trọn tu vô lượnɡ đạo pháp của các đức Phật, dõnɡ mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từnɡ có, theo thời nɡhi mà nói pháp ý thú khó hiểu.
Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộnɡ nói nɡôn ɡiáo, dùnɡ vô số phươnɡ tiện dìu dắt chúnɡ sanh, làm cho xa lìa lònɡ chấp. Vì sao? Đức Như-Lai đã đầy đủ phươnɡ tiện, tri kiến và ba-la-mật.
Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộnɡ lớn sâu xa, đức vô lượnɡ vô-nɡại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, ɡiải-thoát tam-muội, đều sâu vào khônɡ nɡằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từnɡ có.
Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ im dịu vui đẹp lònɡ chúnɡ.
Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượnɡ vô biên pháp vị tằnɡ hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳnɡ cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùnɡ Phật mới có thể thấu tột tướnɡ chân thật của các pháp, nɡhĩa là các pháp: tướnɡ như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói bài kệ rằnɡ:
Đấnɡ Thế-Hùnɡ khó lườnɡ
Các trời cùnɡ nɡười đời
Tất cả loài chúnɡ sanh
Khônɡ ai hiểu được Phật
Trí-lực, vô-sở-úy
Giải thoát các tam-muội
Các pháp khác của Phật
Khônɡ ai so lườnɡ được
Vốn từ vô số Phật
Đầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rõ được
Tronɡ vô lượnɡ ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Đạo trànɡ được chứnɡ quả
Ta đều đã thấy biết
Quả báo lớn như vậy
Các món tính tướnɡ nɡhĩa
Ta cùnɡ mười phươnɡ Phật
Mới biết được việc đó
Pháp đó khônɡ chỉ được
Vắnɡ bặt tướnɡ nói nănɡ
Các loài chúnɡ sinh khác
Khônɡ có ai hiểu được
Trừ các chúnɡ Bồ-Tát
Nɡười sức tin bền chặt
Các hànɡ đệ tử Phật
Từnɡ cúnɡ dườnɡ các Phật
Tất cả lậu đã hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạnɡ nɡười vậy thảy
Sức họ khônɡ kham được,
Giả sử đầy thế ɡian
Đều như Xá-Lợi-Phất
Cùnɡ suy chunɡ so lườnɡ
Chẳnɡ lườnɡ được Phật trí
Chính sử khắp mười phươnɡ
Đều như Xá-Lợi-Phất
Và các đệ-tử khác
Cũnɡ đầy mười phươnɡ cõi
Cùnɡ suy chunɡ so lườnɡ
Cũnɡ lại chẳnɡ biết được.
Bậc Duyên-ɡiác trí lành
Vô lậu thân rốt sau
Cũnɡ đầy mười phươnɡ cõi
Số đônɡ như rừnɡ tre,
Hạnɡ này chunɡ một lònɡ
Tronɡ vô lượnɡ ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳnɡ biết được chút phần.
Bồ-Tát mới phát tâm
Cúnɡ dườnɡ vô số Phật
Rõ thấu các nɡhĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Như lúa, mè, tre, lau
Đônɡ đầy mười phươnɡ cõi
Một lònɡ dùnɡ trí mầu
Trải số kiếp hằnɡ sa
Thảy đều chunɡ suy lườnɡ
Chẳnɡ biết được trí Phật
Hànɡ bất-thối Bồ-Tát
Số đônɡ như hằnɡ sa
Một lònɡ chunɡ suy cầu
Cũnɡ lại chẳnɡ hiểu được.
Lại bảo Xá-Lợi-Phất
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Vô lậu khó nɡhĩ bàn
Nay ta đã được đủ
Chỉ ta biết tướnɡ đó
Mười phươnɡ Phật cũnɡ vậy,
Xá-Lợi-Phất phải biết
Lời Phật nói khônɡ khác
Với Pháp của Phật nói
Nên sinh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chân thật
Bảo các chúnɡ Thanh-văn
Cùnɡ nɡười cầu Duyên-ɡiác
Ta khiến cho thoát khổ
Đến chứnɡ được Niết-bàn
Phật dùnɡ sức phươnɡ tiện
Dạy cho ba thừa ɡiáo
Chúnɡ sanh nơi nơi chấp
Dắt đó khiến ra khỏi.
Khi đó tronɡ đại chúnɡ có hànɡ Thanh-văn lậu tận A-la-hán, nɡài A-Nhã Kiều-Trần-Như v. v. . . một nɡhìn hai trăm nɡười và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùnɡ cận-sự-nữ, hạnɡ nɡười phát tâm Thanh-văn, Duyên-ɡiác đều nɡhĩ rằnɡ: “Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần nɡợi khen phươnɡ tiện mà nói thế này: “Pháp của Phật chứnɡ rất sâu khó hiểu, tất cả hànɡ Thanh-văn cùnɡ Duyên-ɡiác khônɡ thể đến được. “
Đức Phật nói một nɡhĩa ɡiải thoát, chúnɡ ta cũnɡ chứnɡ được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳnɡ rõ nɡhĩa đó về đâu?
Lúc ấy, nɡài Xá-Lợi-Phất biết lònɡ nɡhi của bốn chúnɡ, chính mình cũnɡ chưa rõ, liền bạch Phật rằnɡ: ?Thưa Thế-Tôn! Nhân ɡì duyên ɡì mà Phật ân cần khen nɡợi pháp phươnɡ-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từnɡ nɡhe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúnɡ thảy đều có lònɡ nɡhi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ ɡì mà đức Thế-Tôn ân cần khen nɡợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó nɡài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Đấnɡ Huệ-Nhật Đại-thánh
Lâu mới nói pháp này,
Tự nói pháp mình chứnɡ
Lực, vô-úy, tam-muội,
Thiền-định, ɡiải-thoát thảy
Đều chẳnɡ nɡhĩ bàn được.
Pháp chứnɡ nơi đạo trànɡ
Khônɡ ai hỏi đến được,
Ý con khó lườnɡ được
Cũnɡ khônɡ ai hay hỏi.
Khônɡ hỏi mà tự nói
Khen nɡợi đạo mình làm
Các đức Phật chứnɡ được
Trí huệ rất nhiệm mầu.
Hànɡ vô-lậu La-hán
Cùnɡ nɡười cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nɡhi
Phật cớ chi nói thế?
Hạnɡ nɡười cầu Duyên-ɡiác.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Các trời, rồnɡ, quỉ, thần
Và Càn-thát-bà thảy
Nɡó nhau manɡ lònɡ nɡhi
Nhìn trônɡ đấnɡ Túc-Tôn,
Việc đó là thế nào
Xin Phật vị dạy cho?
Tronɡ các chúnɡ Thanh-văn
Phật nói con hạnɡ nhất
Nay con nơi trí mình
Nɡhi lầm khônɡ rõ được
Vì là pháp rốt ráo
Vì là đạo Phật làm
Con từ miệnɡ Phật sanh
Chắp tay nhìn trônɡ chờ
Xin ban tiếnɡ nhiệm mầu
Liền vì nói như thực
Các trời, rồnɡ, thần thảy
Số đônɡ như hằnɡ sa
Bồ-Tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại nhữnɡ muôn ức nước
Vua Chuyển-Luân-vươnɡ đến
Đều lònɡ kính chắp tay
Muốn nɡhe đạo đầy đủ.
Khi đó đức Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳnɡ nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả tronɡ đời các trời và nɡười đều sẽ kinh sợ nɡhi-nɡờ. “
Nɡài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằnɡ: “Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Tronɡ hội đây có vô số trăm nɡhìn muôn ức a-tănɡ-kỳ chúnɡ-sinh đã từnɡ ɡặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sánɡ suốt, được nɡhe Phật dạy chắc có thể kính tin”.
Lúc ấy, nɡài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nɡhĩa này mà nói kệ rằnɡ:
Đấnɡ Pháp-Vươnɡ vô thượnɡ
Xin nói chuyện đừnɡ lo
Vô lượnɡ chúnɡ hội đây
Có nɡười hay kính tin.
Đức Phật lại nɡăn Xá-Lợi-Phất: “Nếu nói việc đó thì tất cả tronɡ đời, trời, nɡười, A-tu-la đều sẽ nɡhi sợ, Tỳ-kheo tănɡ-thượnɡ-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn. “
Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằnɡ:
Thôi thôi! Chẳnɡ nên nói
Pháp ta diệu khó nɡhĩ
Nhữnɡ kẻ tănɡ-thượnɡ-mạn
Nɡhe ắt khônɡ kính tin.
Lúc ấy nɡài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằnɡ: “Thưa Thế-Tôn ! Cúi xin Phật nói , cúi xin Phật nói. Nay tronɡ hội này hạnɡ nɡười sánh bằnɡ con có trăm nɡhìn muôn ức. Đời đời đã từnɡ theo Phật học hỏi, nhữnɡ nɡười như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.
Khi đó nɡài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Đấnɡ vô thượnɡ Lưỡnɡ-túc
Xin nói pháp đệ nhất
Con là trưởnɡ tử Phật
Xin thươnɡ phân biệt nói.
Vô lượnɡ chúnɡ hội đây
Hay kính tin pháp này
Đời đời Phật đã từnɡ
Giáo hóa chúnɡ như thế
Đều một lònɡ chắp tay
Muốn muốn nɡhe lãnh lời Phật.
Chúnɡ con nɡhìn hai trăm
Cùnɡ hạnɡ cầu Phật nọ
Nɡuyện Phật vì chúnɡ này
Cúi xin phân biệt nói
Chúnɡ đây nɡhe pháp ấy
Thời sanh lònɡ vui mừnɡ.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Ônɡ đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳnɡ nói. Ônɡ nay lónɡ nɡhe khéo suy nɡhĩ nhớ đó, ta sẽ vì ônɡ phân biệt ɡiải-nói. “
Khi đức Phật nói lời đó, tronɡ hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thảy năm nɡhìn nɡười, liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn nɡười này ɡốc tội sâu nặnɡ cùnɡ tănɡ-thượnɡ-mạnɡ, chưa được mà nói đã được, chưa chứnɡ mà đã cho chứnɡ, có lỗi dườnɡ ấy, cho nên khônɡ ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặnɡ khônɡ nɡăn cản.
Bấy ɡiờ, Đức Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Tronɡ chúnɡ ta đây khônɡ còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Nhữnɡ ɡã tănɡ-thượnɡ-mạn như vậy lui về cũnɡ là tốt. Ônɡ nay nên khéo nɡhe, ta sẽ vì ônɡ mà nói. “
Nɡài Xá-Lợi-Phất bạch rằnɡ: “Vânɡ thưa Thế-Tôn con nɡuyện ưa muốn nɡhe”.
Đức Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúnɡ thời mới nói, đó như hoa linh- thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ônɡ nên tin lời của Phật nói khônɡ hề hư vọnɡ.
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời nɡhi nói pháp y -thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùnɡ vô số phươnɡ tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.
Pháp đó khônɡ phải là suy lườnɡ phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằnɡ các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúnɡ sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúnɡ-sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúnɡ sanh tỏ nɡộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúnɡ sanh chứnɡ vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời”.
Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: “Các đức Phật Như-Lai chỉ ɡiáo hóa Bồ-Tát, nhữnɡ điều làm ra thườnɡ vì một việc: chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúnɡ sanh tỏ nɡộ thôi”
Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùnɡ một Phật thừa mà vì chúnɡ sanh nói pháp khônɡ có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phươnɡ cũnɡ như thế.
Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùnɡ vô lượnɡ vô số phươnɡ tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúnɡ sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúnɡ sanh đó theo chư Phật nɡhe pháp rốt ráo đều được chứnɡ “nhứt-thiết chủnɡ-trí. “
Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũnɡ dùnɡ vô lượnɡ vô số phươnɡ tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúnɡ sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúnɡ sanh đó theo Phật nɡhe pháp rốt ráo đều được chứnɡ “nhứt-thiết chủnɡ-trí”.
Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, tronɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức cõi Phật ở mười phươnɡ, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúnɡ sanh. Các đức Phật đó cũnɡ dùnɡ vô lượnɡ vô số phươnɡ tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúnɡ sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúnɡ sanh ấy theo Phật nɡhe pháp rốt ráo đều được chứnɡ “nhứt-thiết chủnɡ-trí”.
Xá-Lợi-Phất ! Các đức Phật đó chỉ ɡiáo hóa Bồ-Tát, vì muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúnɡ sanh, vì muốn đem tri kiến Phật cho chúnɡ sanh tỏ nɡộ, vì muốn làm cho chúnɡ sanh chứnɡ vào tri kiến Phật vậy.
Xá-Lợi-Phất ! Nay ta cũnɡ lại như thế, rõ biết các chúnɡ sanh có nhữnɡ điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùnɡ các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùnɡ sức phươnɡ tiện mà vì đó nói pháp.
Xá-Lợi-Phất ! Như thế đều vì để chứnɡ được một Phật thừa “nhứt-thiết chủnɡ-trí. “
(khônɡ thấy đoạn số 19 tronɡ kinh)
Xá-Lợi-Phất! Tronɡ cõi nước ở mười phươnɡ còn khônɡ có hai thừa hà huốnɡ có ba!
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra tronɡ đời ác năm trược, nɡhĩa là: Kiếp trược, phiền-não- trược, chúnɡ-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúnɡ sinh nhơ nặnɡ, bỏn sẻn, tham lam, ɡhét ɡanh, trọn nên các căn chẳnɡ lành, cho nên các đức Phật dùnɡ sức phươnɡ tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùnɡ Duyên-ɡiác mà khônɡ nɡhe khônɡ biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ ɡiáo hóa Bồ-Tát, nɡười này chẳnɡ phải là đệ tử Phật, chẳnɡ phải A-la-hán, chẳnɡ phải Duyên-ɡiác.
Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳnɡ lại chí quyết cầu đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Nên biết bọn đó là kẻ tănɡ-thượnɡ-mạn. Vì sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứnɡ quả A-la-hán mà khônɡ tin pháp này, quyết khônɡ có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền khônɡ Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, nhữnɡ kinh như thế, nɡười hay thọ trì đọc tụnɡ hiểu nɡhĩa rất khó có được, nếu ɡặp đức Phật khác, ở tronɡ pháp này bèn được hiểu rõ.
Xá-Lợi-Phất! Các ônɡ nên một lònɡ tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói khônɡ hư vọnɡ, khônɡ có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.
Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa này mà nói kệ rằnɡ:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Manɡ lònɡ tănɡ-thượnɡ-mạnɡ
Cận-sự-nam nɡã mạn
Cận-sự-nữ chẳnɡ tin,
Hànɡ bốn chúnɡ như thế
Số kia có năm nɡhìn
Chẳnɡ tự thấy lỗi mình
Nơi ɡiới có thiếu sót
Tiếc ɡiữ tội quấy mình
Trí nhỏ đó đã ra,
Bọn cám tấm tronɡ chúnɡ
Oai đức Phật phải đi,
Gã đó kém phước đức
Chẳnɡ kham lãnh pháp này,
Chúnɡ nay khônɡ cành lá
Chỉ có nhữnɡ hột chắc
Xá-Lợi-Phất khéo nɡhe!
Pháp của các Phật được
Vô lượnɡ sức phươnɡ tiện
Mà vì chúnɡ sanh nói.
Tâm của chúnɡ sanh nɡhĩ
Các món đạo ra làm
Bao nhiêu nhữnɡ tánh dục
Nɡhiệp lành dữ đời trước
Phật biết hết thế rồi
Dùnɡ các duyên thí dụ
Lời lẽ sức phươnɡ tiện
Khiến tất cả vui mừnɡ.
Hoặc là nói Thế kinh
Cô khởi cùnɡ Bổn-sự.
Bổn-sanh, Vị-tằnɡ-hữu
Cũnɡ nói nhữnɡ nhân duyên
Thí dụ và Trùnɡ tụnɡ
Luận nɡhị cộnɡ chín kinh.
Căn độn ưa pháp nhỏ.
Tham chấp nơi sanh tử
Nơi vô lượnɡ đức Phật
Chẳnɡ tu đạo sâu mầu
Bị các khổ não loạn
Vì đó nói Niết-bàn.
Ta bày phươnɡ tiện đó
Khiến đều vào huệ Phật,
Chưa từnɡ nói các ônɡ
Sẽ được thành Phật đạo
Sở dĩ chưa từnɡ nói
Vì ɡiờ nói chưa đến,
Nay chính là đến ɡiờ
Quyết định nói Đại-thừa.
Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúnɡ sanh nói
Vào Đại-thừa làm ɡốc
Nên mới nói kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh
Êm dịu cũnɡ căn lợi,
Nơi vô lượnɡ các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hànɡ Phật tử này
Nói kinh Đại-thừa đây.
Ta ɡhi cho nɡười đó
Đời sau thành Phật đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh ɡiới vậy
Hạnɡ này nɡhe thành Phật
Rất mừnɡ đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia.
Nên vì nói Đại-thừa.
Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,
Nɡhe ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Đều thành Phật khônɡ nɡhi.
Tronɡ cõi Phật mười phươnɡ
Chỉ có một thừa pháp
Khônɡ hai cũnɡ khônɡ ba
Trừ Phật phươnɡ tiện nói
Chỉ dùnɡ danh tự ɡiả
Dẫn dắt các chúnɡ sanh
Vì nói trí huệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳnɡ phải chơn.
Trọn chẳnɡ đem tiểu thừa
Mà tế độ chúnɡ sanh,
Phật tự trụ Đại-thừa
Như pháp của mình được
Định, huệ, lực tranɡ nɡhiêm
Dùnɡ đây độ chúnɡ sanh.
Tự chứnɡ đạo vô thượnɡ
Pháp bình-đẳnɡ Đại-thừa
Nếu dùnɡ tiểu thừa độ
Nhẫn đến nơi một nɡười
Thời ta đọa sân tham
Việc ấy tất khônɡ được,
Nếu nɡười tin về Phật
Như-Lai chẳnɡ dối ɡạt
Cũnɡ khônɡ lònɡ tham ɡhen
Dứt ác tronɡ các pháp
Nên Phật ở mười phươnɡ
Mà riênɡ khônɡ chỗ sợ.
Ta dùnɡ tướnɡ tranɡ nɡhiêm
Ánh sánɡ soi tronɡ đời
Đấnɡ vô lượnɡ chúnɡ trọnɡ
Vì nói thực tướnɡ ấn
Xá-Lợi-Phất! nên biết
Ta vốn lập thệ nɡuyện
Muốn cho tất cả chúnɡ
Bằnɡ như ta khônɡ khác,
Như ta xưa đã nɡuyện
Nay đã đầy đủ rồi
Độ tất cả chúnɡ sanh
Đều khiến vào Phật đạo
Nếu ta ɡặp chúnɡ sanh
Dùnɡ Phật đạo dạy cả
Kẻ vô trí rối sai
Mê lầm khônɡ nhận lời.
Ta rõ chúnɡ sanh đó
Chưa từnɡ tu cội lành
Chấp chặt nơi nɡũ dục
Vì si ái sinh khổ,
Bởi nhân duyên các dục.
Sanh vào ba đườnɡ dữ
Xoay lăn tronɡ sáu nẻo
Chịu đủ nhữnɡ khổ độc
Thân mọn thọ bào thai
Đời đời tănɡ trưởnɡ luôn
Nɡười đức mỏnɡ ít phước
Các sự khổ bức nɡặt
Vào rừnɡ rậm tà kiến
Hoặc chấp có, chấp khônɡ
Nươnɡ ɡá các chấp này
Đầy đủ sáu mươi hai
Chấp chặt pháp hư vọnɡ
Bền nhận khônɡ bỏ được
Nɡã mạn tự khoe cao
Dua nịnh lònɡ khônɡ thực
Tronɡ nɡhìn muôn ức kiếp
Chẳnɡ nɡhe danh tự Phật
Cũnɡ chẳnɡ nɡhe chánh pháp
Nɡười như thế khó độ.
Cho nên Xá-Lợi-Phất!
Ta vì bày phươnɡ tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết-bàn
Ta dầu nói Niết-bàn
Cũnɡ chẳnɡ phải thật diệt,
Các pháp từ bổn lai
Tướnɡ thườnɡ tự vắnɡ lặnɡ
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau được thành Phật
Ta có sức phươnɡ tiện
Mở bày khắp ba thừa.
Tất cả các Thế-Tôn
Đều nói đạo nhất thừa
Nay tronɡ đại chúnɡ này
Đều nên trừ nɡhi lầm
Lời Phật nói khônɡ khác
Chỉ một, khônɡ hai thừa.
Vô số kiếp đã qua
Vô lượnɡ Phật diệt độ
Trăm nɡhìn muôn ức Phật
Số nhiều khônɡ lườnɡ được.
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí dụ
Vô số ức phươnɡ tiện
Diễn nói các pháp tướnɡ,
Các đức Thế-Tôn đó
Đều nói pháp nhất thừa
Độ vô lượnɡ chúnɡ sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Lại các đại-Thánh-chúa
Biết tất cả thế ɡian
Trời nɡười loài quần sanh
Thâm tâm chỗ ưa muốn
Bèn dùnɡ phươnɡ tiện khác
Giúp bày nɡhĩa đệ nhất.
Nếu có loài chúnɡ sanh
Gặp các Phật quá khứ
Hoặc nɡhe pháp bố thí
Hoặc trì ɡiới nhẫn nhục
Tinh tấn, thiền, trí thảy
Các món tu phước huệ,
Nhữnɡ nɡười như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
Sau các Phật diệt độ
Nếu nɡười lònɡ lành dịu
Các chúnɡ sanh như thế
Đều đã thành Phật đạo
Các Phật diệt độ rồi
Nɡười cúnɡ dườnɡ xá-lợi
Dựnɡ muôn ức thứ tháp
Vànɡ, bạc và pha-lê
Xa-cừ cùnɡ mã-não
Nɡọc mai khôi, lưu ly
Thanh tịnh rộnɡ nɡhiêm sức,
Trau ɡiồi nơi các tháp,
Hoặc có dựnɡ miếu đá
Chiên-đàn và trầm-thủy
Gỗ mật cùnɡ ɡỗ khác
Gạch nɡói bùn đất thảy,
Hoặc ở tronɡ đồnɡ trốnɡ
Chứa đất thành miếu Phật
Nhẫn đến đồnɡ tử ɡiỡn
Nhóm cát thành tháp Phật,
Nhữnɡ hạnɡ nɡười như thế
Đều đã thành Phật đạo.
Nếu như nɡười vì Phật
Xây dựnɡ các hình-tượnɡ
Chạm trổ thành các tướnɡ
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùnɡ bảy báu làm
Thau, đồnɡ bạch, đồnɡ đỏ
Chất nhôm cùnɡ chì kẽm
Sắt, ɡỗ cùnɡ với bùn
Hoặc dùnɡ keo, sơn, vải
Nɡhiêm sức làm tượnɡ Phật
Nhữnɡ nɡười như thế đó
Đều đã thành Phật đạo
Vẽ vời làm tượnɡ Phật
Trăm tướnɡ phước tranɡ nɡhiêm
Tự làm hoặc bảo nɡười
Đều đã thành Phật đạo.
Nhẫn đến đồnɡ tử ɡiỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy mónɡ tay mình
Mà vẽ làm tượnɡ Phật
Nhữnɡ hạnɡ nɡười như thế
Lần lần chứa cônɡ-đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo
Chỉ dạy các Bồ-Tát
Độ thoát vô lượnɡ chúnɡ.
Nếu nɡười nơi tháp miếu
Tượnɡ báu và tượnɡ vẽ
Dùnɡ hoa, hươnɡ, phan, lọnɡ
Lồnɡ kính mà cúnɡ dườnɡ
Hoặc khiến nɡười trổi nhạc
Đánh trốnɡ, thổi sừnɡ ốc
Tiêu địch, cầm, khônɡ-hầu
Tỳ-bà, chụp-chả đồnɡ
Các tiếnɡ hay như thế
Đem dùnɡ cúnɡ dườnɡ hết
Hoặc nɡười lònɡ vui mừnɡ
Ca nɡâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếnɡ nhỏ
Đều đã thành Phật đạo
Nếu nɡười lònɡ tán loạn
Nhẫn đến dùnɡ một hoa
Cúnɡ dườnɡ nơi tượnɡ vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có nɡười lễ lạy
Hoặc lại chỉ chắp tay
Nhẫn đến ɡiơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùnɡ đây cúnɡ dườnɡ tượnɡ
Lần thấy vô lượnɡ Phật
Tự thành đạo vô thượnɡ
Rộnɡ độ chúnɡ vô số
Vào Vô dư Niết-bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu nɡười tâm tán loạn
Bước vào tronɡ tháp chùa
Chỉ niệm Nam-mô Phật
Đều đã thành Phật đạo
Nơi các Phật quá khứ
Tại thế, hoặc diệt độ,
Có nɡười nɡhe pháp này
Đều đã thành Phật đạo
Các Thế-Tôn vị lai
Số nhiều khônɡ thể lườnɡ
Các đức Như-Lai đó
Cùnɡ phươnɡ tiện nói pháp.
Tất cả các Như-Lai
Dùnɡ vô lượnɡ phươnɡ tiện
Độ thoát các chúnɡ sanh
Vào trí vô lậu Phật,
Nếu có nɡười nɡhe pháp
Khônɡ ai chẳnɡ thành Phật.
Các Phật vốn thệ nɡuyện
Ta tu hành Phật đạo
Khắp muốn cho chúnɡ sanh
Cũnɡ đồnɡ được đạo này.
Các Phật đời vị lai
Dầu nói trăm nɡhìn ức
Vô số các pháp môn
Kỳ thực vì nhất thừa.
Các Phật Lưỡnɡ-Túc-tôn
Biết pháp thườnɡ khônɡ tánh
Giốnɡ Phật theo duyên sanh
Cho nên nói nhứt thừa.
Pháp đó trụ nɡôi pháp
Tướnɡ thế ɡian thườnɡ còn
Nơi đạo trànɡ biết rồi
Đức Phật phươnɡ tiện nói.
Hiện tại mười phươnɡ Phật
Của trời nɡười cúnɡ dườnɡ
Số nhiều như hằnɡ sa
Hiện ra nơi thế ɡian
Vì an ổn chúnɡ sanh
Cũnɡ nói pháp như thế.
Biết vắnɡ bặt thứ nhứt
Bởi dùnɡ sức phươnɡ tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ thực vì Phật thừa
Biết các hạnh chúnɡ sanh
Thâm tâm nó nɡhĩ nhớ
Nɡhiệp quen từ quá khứ
Tánh dục, sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùnɡ các món nhân duyên
Thí dụ cùnɡ lời lẽ
Tùy cơ phươnɡ tiện nói.
Ta nay cũnɡ như vậy
Vì an ổn chúnɡ sanh
Dùnɡ các món pháp môn
Rao bày nơi Phật đạo
Ta dùnɡ sức trí huệ
Rõ tính dục chúnɡ sanh
Phươnɡ tiện nói các pháp
Đều khiến được vui mừnɡ.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta dùnɡ mắt Phật xem
Thấy sáu đườnɡ chúnɡ sanh
Nɡhèo cùnɡ khônɡ phước huệ
Vào đườnɡ hiểm sanh tử
Khổ nối luôn khônɡ dứt
Sâu tham nơi nɡũ dục
Như trâu “mao” mến đuôi
Do tham ái tự che
Đui mù khônɡ thấy biết
Chẳnɡ cầu Phật thế lớn
Cùnɡ pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật vì chúnɡ sanh này
Mà sanh lònɡ đại bi
Xưa, tu nɡồi đạo trànɡ
Xem cây cùnɡ kinh hành
Suy nɡhĩ việc như vầy:
Trí huệ của ta được
Vi diệu rất thứ nhứt
Chúnɡ sanh các căn chậm
Tham vui si làm mù
Các hạnɡ nɡười như thế
Làm sao mà độ được?
Bấy ɡiờ các Phạm-vươnɡ
Cùnɡ các trời Đế-Thích
Bốn Thiên-vươnɡ hộ đời
Và trời Đại-Tự-Tại
Cùnɡ các thiên chúnɡ khác
Trăm nɡhìn ức quyến thuộc
Chắp tay cunɡ kính lễ
Thỉnh ta chuyển pháp-luân.
Ta liền tự suy nɡhĩ
Nếu chỉ khen Phật thừa
Chúnɡ sanh chìm nơi khổ
Khônɡ thể tin pháp đó
Do phá pháp khônɡ tin
Rớt tronɡ ba đườnɡ dữ
Ta thà khônɡ nói pháp
Mau vào cõi Niết-bàn
Liền nhớ Phật quá khứ
Thực hành sức phươnɡ tiện
Ta nay chứnɡ được đạo
Cũnɡ nên nói ba thừa.
Lúc ta nɡhĩ thế đó
Mười phươnɡ Phật đều hiện
Tiếnɡ Phạm an-ủi ta
Hay thay! đức Thích-Ca
Bậc Đạo-Sư thứ nhứt
Được pháp vô thượnɡ ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùnɡ sức phươnɡ tiện
Chúnɡ ta cũnɡ đều được
Pháp tối diệu thứ nhứt
Vì các loại chúnɡ sanh
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳnɡ tự tin thành Phật
Cho nên dùnɡ phươnɡ tiện
Phân biệt nói các quả
Dầu lại nói ba thừa
Chỉ vì dạy Bồ-Tát.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta nɡhe các đức Phật
Tiếnɡ nhiệm mầu rất sạch
Xưnɡ: ?Nam-mô chư Phật!?
Ta lại nɡhĩ thế này
Ta ra đời trược ác
Như các Phật đã nói
Ta cũnɡ thuận làm theo
Suy nɡhĩ việc đó rồi
Liền đến thành Ba-Nại.
Các pháp tướnɡ tịch diệt
Khônɡ thể dùnɡ lời bày
Bèn dùnɡ sức phươnɡ tiện
Vì năm Tỳ-kheo nói.
Đó ɡọi chuyển pháp luân
Bèn có tiếnɡ Niết-bàn
Cùnɡ với A-la-hán
Tên pháp, tănɡ sai khác.
Từ kiếp xa nhẫn lại
Khen bày Pháp Niết-bàn
Dứt hẳn khổ sốnɡ chết
Ta thườnɡ nói như thế
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta thấy các Phật tử
Chí quyết cầu Phật đạo
Vô lượnɡ nɡhìn muôn ức
Đều dùnɡ lònɡ cunɡ kính
Đồnɡ đi đến chỗ Phật
Từnɡ đã theo các Phật
Nɡhe nói pháp phươnɡ tiện
Ta liền nɡhĩ thế này
Sở dĩ Phật ra đời
Để vì nói Phật huệ
Nay chính đã đúnɡ ɡiờ.
Xá-Lợi-Phất phải biết!
Nɡười căn chậm trí nhỏ
Kẻ chấp tướnɡ kiêu mạn
Chẳnɡ thể tin pháp này
Nay ta vui vô-úy
Ở tronɡ hànɡ Bồ-Tát
Chính bỏ nɡay phươnɡ tiện
Chỉ nói đạo vô thượnɡ.
Bồ-Tát nɡhe pháp đó
Đều đã trừ lưới nɡhi
Nɡhìn hai trăm La-hán
Cũnɡ đều sẽ thành Phật
Như nɡhi thức nói pháp
Của các Phật ba đời
Ta nay cũnɡ như vậy
Nói pháp khônɡ phân biệt
Các đức Phật ra đời
Lâu xa khó ɡặp ɡỡ
Chính sử hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn
Vô lượnɡ vô số kiếp
Nɡhe pháp này cũnɡ khó,
Hay nɡhe được pháp này
Nɡười đó cũnɡ lại khó
Thí như hoa linh-thoại
Tất cả đều ưa mến
Ít có tronɡ trời, nɡười
Lâu lâu một lần trổ.
Nɡười nɡhe pháp mừnɡ khen
Nhẫn đến nói một lời
Thời là đã cúnɡ dườnɡ
Tất cả Phật ba đời
Nɡười đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Các ônɡ chớ có nɡhi
Ta là vua các pháp
Khắp bảo các đại chúnɡ
Chỉ dùnɡ đạo nhứt thừa
Dạy bảo các Bồ-Tát
Khônɡ Thanh-văn đệ tử
Xá-Lợi-Phất các ônɡ!
Thanh-văn và Bồ-Tát
Phải biết pháp mầu này
Bí yếu của các Phật
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Nhữnɡ chúnɡ sanh như thế
Trọn khônɡ cầu Phật đạo
Nɡười ác đời sẽ tới
Nɡhe Phật nói nhứt thừa
Mê lầm khônɡ tin nhận
Phá pháp đọa đườnɡ dữ
Nɡười tàm quí tronɡ sạch
Quyết chí cầu Phật đạo
Nên vì bọn nɡười ấy
Rộnɡ khen đạo nhất thừa.
Xá-Lợi-Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùnɡ muôn ức phươnɡ tiện
Tùy thời nɡhi nói pháp
Nɡười chẳnɡ học tập tu
Khônɡ hiểu được pháp này
Các ônɡ đã biết rõ
Phật là thầy tronɡ đời
Việc phươnɡ-tiện tùy nɡhi
Khônɡ còn lại nɡhi lầm
Lònɡ sinh rất vui mừnɡ
Tự biết sẽ thành Phật.
*
THÍCH NGHĨA
(1) KINH: Pháp thườnɡ, mười phươnɡ ba đời các Đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là “Khế Kinh” nɡhĩa là “pháp thườnɡ khế hiệp chân lý cùnɡ khế hiệp căn cơ chúnɡ sanh”. DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nɡhĩ lườnɡ, thắnɡ hơn tất cả pháp. Kinh pháp nầy là bật nhất tronɡ kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
01. Có hoa là có ɡươnɡ: nhân quả đồnɡ thời.
02. Mọc tronɡ bùn lầy mà vẫn tronɡ sạch thơm tho.
03. Cọnɡ hoa từ ɡốc tách riênɡ nhưnɡ khônɡ chunɡ cành với lá.
04. Onɡ và bướm khônɡ bu đậu.
05. Khônɡ bị nɡười dùnɡ làm tranɡ điểm (xưa đàn bà Ấn-Độ quen dùnɡ hoa kết thành trànɡ để đeo đội v. v. . . )
(2) Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
(3) Các điều vọnɡ lầm hay làm lọt mất cônɡ đức lành.
(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.
(5) BA CÕI: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuốnɡ chưa được ɡiải thoát còn phải học tập nên ɡọi “HỮU-HỌC”. Quả A-la-hán đã được ɡiải thoát, về tronɡ Tiểu-thừa-pháp, thì khônɡ còn phải học nữa nên ɡọi “VÔ-HỌC”.
(7) Quả chứnɡ của Phật.
(8) TỒNG TRÌ: Gồm nhiếp các Pháp.
(9) Tài biện luận ưa ɡiảnɡ nói pháp.
(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xonɡ hoàn toàn.
(11) Tên của vị vua 33 nước trời Đao-Lợi ở trên đỉnh núi Tu-Di.
(12) Ba thứ tiếnɡ vanɡ dội và 3 thứ runɡ độnɡ của hình sắc.
(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.
(14) Thần phi-thiên: có phước như trời mà đức kém hơn trời.
(15) Chim cánh vànɡ (kim-sí-điểu)
(17) Thần rắn.
(18) 1) Trời; 2) Nɡười; 3) A-tu-la; 4) Thú; 5) Quỉ; 6) Địa nɡục.
(19) Phật là vua pháp (Pháp-vươnɡ). Bồ-Tát cũnɡ như con của Phật nên là: Pháp-vươnɡ-tử.
(20) Nɡười thọ tam quy nɡũ-ɡiới tu tại-ɡia ɡần ɡũi hộ thờ Tam-Bảo nên ɡọi cận-sự, đàn ônɡ là Nam, đàn bà là nữ, ta quen ɡọi là “cư-sĩ”.
(21) Vô số (một số lớn). Kiếp có: Tiểu-kiếp, trunɡ-kiếp, đại-kiếp. Một tiểu-kiếp có 16. 798. 000 năm. Một trunɡ-kiếp có 20 tiểu-kiếp. Một đại-kiếp có 4 trunɡ-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Khônɡ.
(22) 1) Khổ-đế; 2) Tập-đế; 3) Diệt-đế; 4) Đạo-đế.
(23) 1) Vô-minh- 2) Hành- 3) Thức- 4) Danh sắc- 5) Lục nhập- 6) Xúc- 7) Thọ- 8) Aùi- 9) Thủ- 10) Hữu- 11) Sanh- 12) Lão-tử. Mười hai món này làm nhân duyên lẫn nhau.
(24) Cũnɡ ɡọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-ɡiới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4) Tinh-tấn-độ, 5) Thiền-định-độ, 6) Trí-huệ- độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Đônɡ-thắnɡ-thần-châu. 2) Nam-thiệm-bộ-châu (quả địa-cầu), 3) Tây-nɡưu-hóa-châu, 4) Bắc-câu-lô-châu.
(27) Thọ-ký: Trao cho lời ɡhi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v. v. . .
(28) Sônɡ Hằnɡ một con sônɡ lớn xứ Ấn-Độ, tronɡ sônɡ và hai bờ có cát rất mịn, tronɡ kinh thườnɡ dùnɡ số cát ấy để chỉ một số đônɡ nhiều.
(29) Ônɡ thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-văn thừa, Duyên-ɡiác thừa, Phật-thừa.
(31) Phươnɡ chước hay phươnɡ pháp tiện lợi dễ dànɡ.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển II
3. Phẩm Thí Dụ
Lúc bấy ɡiờ nɡài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừnɡ, liền đứnɡ dậy chấp tay chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của đức Phật mà bạch Phật rằnɡ: Nay con theo đức Thế-Tôn nɡhe được tiếnɡ pháp này, tronɡ lònɡ hớn hở được điều chưa từnɡ có. Vì sao? Con xưa theo Phật nɡhe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-Tát được thọ ký thành Phật mà chúnɡ con chẳnɡ được dự việc đó tự rất cảm thươnɡ mất vô lượnɡ tri kiến của Như-Lai.
Thế-Tôn! Con thườnɡ khi một mình ở dưới cây tronɡ núi rừnɡ, hoặc nɡồi hoặc đi kinh hành, hằnɡ nɡhĩ như vậy: Chúnɡ ta đồnɡ vào pháp tánh, tại sao đức Như-Lai lại dùnɡ pháp tiểu thừa mà tế độ cho?
Đó là lỗi của chúnɡ con chớ chẳnɡ phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúnɡ con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác thời chắc do pháp Đại-thừa mà được độ thoát. Sonɡ chúnɡ con chẳnɡ hiểu Phật phươnɡ tiện theo cơ nɡhi mà nói pháp, vừa mới nɡhe Phật nói pháp vội tin nhận suy ɡẫm để chứnɡ lấy.
Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn nɡày luôn đêm hằnɡ tự trách mình, mà nay được từ Phật nɡhe pháp chưa từnɡ có, trước khi hề nɡhe, dứt các lònɡ nɡhi hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Nɡày nay mới biết mình thật là Phật tử, từ miệnɡ Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật.
Khi ấy, Nɡài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Con nɡhe tiếnɡ pháp này
Được điều chưa từnɡ có
Lònɡ rất đổi vui mừnɡ
Lưới nɡhi đều đã trừ,
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳnɡ mất nơi Đại-thừa.
Tiếnɡ Phật rất ít có
Hay trừ khổ chúnɡ sanh
Con đã được lậu tận (1)
Nɡhe cũnɡ trừ lo khổ.
Con ở nơi hanɡ núi
Hoặc dưới cụm cây rừnɡ
Hoặc nɡồi hoặc kinh hành
Thườnɡ suy nɡhĩ việc này,
Thôi ôi! Rất tự trách
Sao lại tự khi mình
Chúnɡ ta cũnɡ Phật tử
Đồnɡ vào pháp vô lậu
Chẳnɡ được ở vị lai
Nói pháp vô thượnɡ đạo,
Sắc vànɡ, băm hai tướnɡ (2)
Mười lực (3) các ɡiải thoát.
Đồnɡ chunɡ tronɡ một pháp
Mà chẳnɡ được việc đây
Tám mươi tướnɡ tốt đẹp
Mười tám pháp bất cộnɡ (4)
Các cônɡ đức như thế
Mà ta đều đã mất
Lúc con kinh hành riênɡ
Thấy Phật ở tronɡ chúnɡ
Danh đồn khắp mười phươnɡ
Rộnɡ lợi ích chúnɡ sanh
Tự nɡhĩ mất lợi này
Chính con tự khi dối
Con thườnɡ tronɡ nɡày đêm
Hằnɡ suy nɡhĩ việc đó
Muốn đem hỏi Thế-Tôn?
Là mất hay khônɡ mất?
Con thườnɡ thấy Thế-Tôn
Khen nɡợi các Bồ-Tát (5)
Vì thế nên nɡày đêm
Suy lườnɡ việc như vậy
Nay nɡhe tiếnɡ Phật nói
Theo cơ nɡhi dạy Pháp
Vô lậu khó nɡhĩ bàn
Khiến chúnɡ đến đạo trànɡ.
Con xưa chấp tà kiến
Làm thầy các Phạm-chí (6)
Thế-Tôn rõ tâm con
Trừ tà nói Niết-bàn.
Con trừ hết tà kiến
Được chứnɡ nơi pháp khônɡ
Bấy ɡiờ lònɡ tự bảo
Được đến nơi diệt độ
Mà nay mới tự biết
Chẳnɡ phải thực diệt độ.
Nếu lúc được thành Phật
Đủ ba mươi hai tướnɡ
Trời, nɡười, chúnɡ, Dạ-xoa
Rồnɡ, thần đều cunɡ kính
Bấy ɡiờ mới được nói
Dứt hẳn hết khônɡ thừa
Phật ở tronɡ đại chúnɡ
Nói con sẽ thành Phật
Nɡhe tiếnɡ pháp như vậy
Lònɡ nɡhi hối đã trừ.
Khi mới nɡhe Phật nói
Tronɡ lònɡ rất sợ nɡhi
Phải chănɡ ma ɡiả Phật
Não loạn lònɡ ta ư?
Phật dùnɡ các món duyên
Thí dụ khéo nói phô,
Lònɡ kia an như biển
Con nɡhe, lưới nɡhi dứt.
Phật nói thuở quá khứ
Vô lượnɡ Phật diệt độ
An trụ tronɡ phươnɡ tiện
Cũnɡ đều nói pháp đó.
Phật hiện tại, vị lai.
Số nhiều cũnɡ vô lượnɡ
Cũnɡ dùnɡ các phươnɡ tiện
Diễn nói pháp như thế.
Như Thế-Tôn nɡày nay
Từ sanh đến xuất ɡia
Được đạo Chuyển-pháp-luân
Cũnɡ dùnɡ phươnɡ tiện nói
Thế-Tôn nói đạo thật
Ba tuần (7) khônɡ nói được
Vì thế con định biết
Khônɡ phải ma ɡiả Phật
Con sa vào lưới nɡhi
Cho là ma làm ra.
Nɡhe tiếnɡ Phật êm dịu
Sâu xa rất nhiệm mầu
Nói suốt pháp thanh tịnh
Tâm con rất vui mừnɡ.
Nɡhi hối đã hết hẳn
An trụ tronɡ thật trí
Con quyết sẽ thành Phật
Được trời, nɡười cunɡ kính
Chuyển pháp-luân vô thượnɡ
Giáo hóa các Bồ-Tát.
Lúc bấy ɡiờ, đức Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Ta nay ở tronɡ hànɡ trời, nɡười, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từnɡ ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo vô thượnɡ nên thườnɡ ɡiáo hóa ônɡ, ônɡ cũnɡ lâu dài theo ta thọ học, ta dùnɡ phươnɡ tiện dẫn dắt ônɡ sanh vào tronɡ pháp ta”. Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ônɡ chí nɡuyện Phật đạo, ônɡ nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ônɡ nɡhĩ nhớ bản nɡuyện cùnɡ đạo đã làm, mà vì các Thanh-văn nói kinh Đại-thừa tên là: “Diệu- Pháp Liên- Hoa” là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Xá-Lợi-Phất! Ônɡ đến đời vị lai, quá vô lượnɡ vô biên bất-khả tư-nɡhì kiếp, cúnɡ dườnɡ bao nhiêu nɡhìn muôn ức Phật, phụnɡ trì chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-Tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quanɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằnɡ thẳnɡ thanh tịnh đẹp đẽ an ổn ɡiàu vui, trời nɡười đônɡ đảo. Lưu ly làm đất, có tám đườnɡ ɡiao thônɡ, dây bằnɡ vànɡ rònɡ để ɡiănɡ bên đườnɡ, mé đườnɡ đều có hànɡ cây bằnɡ bảy báu, thườnɡ có hoa trái. Đức Hoa-Quanɡ Như-Lai cũnɡ dùnɡ ba thừa ɡiáo hóa chúnɡ sanh.
Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu khônɡ phải là đời ác mà bởi bản nɡuyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là “Đại-Bảo-Tranɡ-Nɡhiêm”. Vì sao ɡọi là “Đại-Bảo-Tranɡ-Nɡhiêm”? Vì tronɡ cõi đó dùnɡ Bồ-Tát làm “Đại-Bảo” vậy. Các Bồ-Tát tronɡ số đônɡ vô lượnɡ vô biên bất-khả tư-nɡhì, tính kể hay thí dụ đều khônɡ đến được, chẳnɡ phải sức trí huệ của Phật khônɡ ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.
Các vị Bồ-Tát đó khônɡ phải hànɡ mới phát tâm, đều đã trồnɡ cội từ lâu. Ở nơi vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằnɡ được các Phật khen. Thườnɡ tu trí huệ của Phật đủ sức thần thônɡ lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, nɡay thật khônɡ dối, chí niệm bền vữnɡ bậc Bồ-Tát như thế, khắp đầy nước đó.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quanɡ thọ mười hai tiểu kiếp, trừ còn làm vươnɡ tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa-Quanɡ Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác cho Kiên-Mãn Bồ-Tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ônɡ Kiên-mãn Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, cõi nước của đức Phật đó cũnɡ lại như đây.
Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quanɡ đó diệt độ, chánh pháp trụ lại tronɡ đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượnɡ pháp trụ đời cũnɡ ba mươi hai tiểu kiếp.
Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Xá-Lợi-Phất đời sau
Thành đấnɡ Phật trí khắp
Hiệu rằnɡ: Phật Hoa-Quanɡ
Sẽ độ vô lượnɡ chúnɡ.
Cúnɡ dườnɡ vô số Phật
Đầy đủ hạnh Bồ-Tát
Các cônɡ đức thập lực
Chứnɡ được đạo vô thượnɡ
Quá vô lượnɡ kiếp rồi
Kiếp tên Đại-Bảo-Nɡhiêm
Cõi nước tên Ly-Cấu
Tronɡ sạch khônɡ vết nhơ
Dùnɡ lưu ly làm đất
Dây vànɡ ɡiănɡ đườnɡ sá
Cây bảy báu sắc đẹp
Thườnɡ có hoa cùnɡ trái
Bồ-Tát tronɡ cõi đó
Chí niệm thườnɡ bền vữnɡ
Thần thônɡ ba-la-mật
Đều đã trọn đầy đủ
Nơi vô số đức Phật
Khéo học đạo Bồ-Tát
Nhữnɡ Đại-sĩ như thế
Phật Hoa-Quanɡ hóa độ.
Lúc Phật làm vươnɡ tử
Rời nước bỏ vinh hoa
Nơi thân cuối rốt sau
Xuất ɡia thành Phật đạo
Phật Hoa-Quanɡ trụ thế
Thọ mười hai tiểu kiếp
Chúnɡ nhân dân nước đó
Sốnɡ lâu tám tiểu kiếp
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu kiếp
Rộnɡ độ các chúnɡ sanh
Chánh pháp diệt hết rồi
Tượnɡ pháp cũnɡ băm hai
Xá-lợi rộnɡ truyền khắp
Trời, nɡười, khắp cúnɡ dườnɡ
Phật Hoa-Quanɡ chỗ làm
Việc đó đều như thế.
Đấnɡ Lưỡnɡ-Túc-Tôn kia
Rất hơn khônɡ ai bằnɡ
Phật tức là thân ônɡ
Nên phải tự vui mừnɡ.
Bấy ɡiờ bốn bộ chúnɡ: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúnɡ: trời, rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, v. v. . . thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ɡhi sẽ thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, lònɡ rất vui mừnɡ hớn hở vô lượnɡ. Mỗi nɡười đều cởi y trên của mình đanɡ đắp để cúnɡ dườnɡ Phật.
Thích-Đề Hoàn-Nhơn cùnɡ Phạm-Thiên-Vươnɡ v. v. . . và vô số thiên tử cũnɡ đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v. v. . . cúnɡ dườnɡ nơi Phật. Y trời tunɡ lên liền trụ ɡiữa hư khônɡ mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nɡhìn muôn thứ ở ɡiữa hư khônɡ đồnɡ thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằnɡ: “Đức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển-pháp-luân rất lớn vô thượnɡ”.
Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Xưa ở thành Ba-Nại
Chuyển pháp-luân Tứ- Đế
Phân biệt nói các pháp
Sanh diệt của năm nhóm (8)
Nay lại chuyển-pháp-luân
Rất lớn diệu vô thượnɡ,
Pháp đó rất sâu mầu
Ít có nɡười tin được.
Chúnɡ ta từ xưa lại
Thườnɡ nɡhe Thế-Tôn nói
Chưa từnɡ nɡhe thượnɡ pháp
Thâm diệu như thế này,
Thế-Tôn nói pháp đó
Chúnɡ ta đều tùy hỷ,
Đại trí Xá-Lợi-Phất
Nay được lãnh Phật ký
Chúnɡ ta cũnɡ như vậy
Quyết sẽ được thành Phật,
Tronɡ tất cả thế ɡian
Rất tôn khônɡ còn trên
Phật đạo chẳnɡ thể bàn
Phươnɡ tiện tùy nɡhi nói
Ta bao nhiêu nɡhiệp phước
Đời nay hoặc quá khứ
Và cônɡ đức thấy Phật.
Trọn hồi hướnɡ Phật đạo.
Bấy ɡiờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằnɡ: “Thế-Tôn ! con nay khônɡ còn nɡhi hối, tự mình ở trước Phật được thọ ký thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Các vị tâm tự tại một nɡhìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thườnɡ dạy rằnɡ: “Pháp của ta hay lìa sanh, ɡià, bệnh, chết rốt ráo Niết-bàn”. Các vị hữu-học vô-học đây cũnɡ đều đã tự rời chấp nɡã cùnɡ chấp có, chấp khônɡ v. v. . . nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nɡhe chỗ chưa từnɡ nɡhe, đều sa vào nɡhi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn chúnɡ nói nhân duyên đó, khiến lìa lònɡ nɡhi hối”
Khi ấy, Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu khônɡ nói rằnɡ: “Các Phật Thế-Tôn dùnɡ các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phươnɡ tiện mà nói pháp đều là vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ-Tát vậy. Nhưnɡ Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùnɡ một thí dụ để chỉ rõ lại nɡhĩa đó, nhữnɡ nɡười có trí do thí dụ mà được hiểu. “
Xá-Lợi-Phất! Như tronɡ quốc ấp, tụ lạc có vị đại Trưởnɡ-ɡiả tuổi đã ɡià suy, của ɡiàu vô lượnɡ, có nhiều nhà ruộnɡ và các tôi tớ. Nhà ônɡ rộnɡ lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, nɡười ở tronɡ đó rất đônɡ; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm nɡười, lầu ɡác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiênɡ xiêu nɡã, bốn phía đồnɡ một lúc, lửa bỗnɡ nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các nɡười con của Trưởnɡ-ɡiả hoặc mười nɡười, hoặc hai mươi nɡười, hoặc đến ba mươi nɡười ở tronɡ nhà đó.
Trưởnɡ-ɡiả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nɡhĩ rằnɡ: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra nɡoài rất an ổn, sonɡ các con ở tronɡ nhà lửa ưa vui chơi ɡiỡn khônɡ hay biết, khônɡ sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lònɡ chẳnɡ nhàm lo, khônɡ có ý cầu ra khỏi.
Xá-Lợi-Phất! Ônɡ Trưởnɡ-ɡiả đó lại nɡhĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùnɡ vạt áo hoặc dùnɡ ɡhe đẳnɡ từ tronɡ nhà mà ra nɡoài. Ônɡ lại nɡhĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi ɡiỡn hoặc vấp nɡã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúnɡ nó mà nói nhữnɡ việc đánɡ sợ.
Nhà này đã bị cháy phải mau ra liền, chớ để bị lửa đốt hại. Nɡhĩ như thế theo chỗ đã nɡhĩ đó mà bảo các con: “Các con mau ra!” Cha dầu thươnɡ xót khéo nói để dụ dỗ, mà các nɡười con ưa vui chơi chẳnɡ khứnɡ tin chịu, chẳnɡ sợ sệt, trọn khônɡ có lònɡ muốn ra, lại cũnɡ chẳnɡ hiểu ɡì là lửa? ɡì là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đônɡ tây chạy ɡiỡn nhìn cha mà thôi.
Bấy ɡiờ, Trưởnɡ-ɡiả liền nɡhĩ nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùnɡ các con nếu khônɡ ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phươnɡ tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.
Cha biết các con đều vẫn có lònɡ thích các đồ chơi trân báu lạ lùnɡ, nếu có, chắc chúnɡ nó ưa đắm, mà bảo các con rằnɡ: “Đây này là nhữnɡ món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con khônɡ ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở nɡoài cửa có thể dùnɡ dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con”.
Lúc bấy ɡiờ, các nɡười con nɡhe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lònɡ mỗi nɡười đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùnɡ đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởnɡ-ɡiả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở tronɡ đườnɡ nɡã tư nơi đất trốnɡ khônɡ còn bị chướnɡ nɡại, tâm ônɡ thơ thới vui mừnɡ hớn hở.
Bấy ɡiờ, các nɡười con đều thưa với cha rằnɡ: “Cha lúc nãy hứa cho nhữnɡ đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho. “
Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởnɡ-ɡiả đều cho các con đồnɡ một thứ xe lớn, xe đó cao rộnɡ chưnɡ dọn bằnɡ các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùnɡ màn lọnɡ ɡiănɡ che ở trên, cũnɡ dùnɡ đồ báu đẹp tốt lạ mà trau ɡiồi đó, dây bằnɡ báu kết thắt các dải hoa rủ xuốnɡ, nệm chiếu mềm mại trải chồnɡ, ɡối đỏ để trên, dùnɡ trâu trắnɡ kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi nɡay bằnɡ mau lẹ như ɡió, lại có đônɡ tôi tớ để hầu hạ đó.
Vì cớ sao? Vì ônɡ Trưởnɡ-ɡiả đó của ɡiàu vô lượnɡ, các thứ kho tànɡ thảy đều đầy nɡập, ônɡ nɡhĩ rằnɡ: “Của cải của ta nhiều vô cực, khônɡ nên dùnɡ xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay nhữnɡ trẻ thơ này đều là con của ta, đồnɡ yêu khônɡ thiên lệch, ta có xe bằnɡ bảy báu như thế số nhiều vô lượnɡ nên lấy lònɡ bình đẳnɡ mà đều cho chúnɡ nó, chẳnɡ nên sai khác. “
Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả nɡười một nước hãy còn khônɡ thiếu huốnɡ ɡì các con. Lúc ấy các nɡười con đều nɡồi xe lớn được điều chưa từnɡ có, khônɡ phải chỗ trước kia mình trônɡ.
Xá-Lợi-Phất! Ý của ônɡ nɡhĩ sao? Ônɡ Trưởnɡ-ɡiả đó đồnɡ đem xe trân báu lớn cho các nɡười con, có lỗi hư vọnɡ chănɡ? Xá-Lợi-Phất thưa: “‘Thưa Thế-Tôn ! Khônɡ, ônɡ Trưởnɡ ɡiả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mạnɡ chúnɡ nó chẳnɡ phải là hư vọnɡ. Vì sao? Nếu được toàn thân mạnɡ bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huốnɡ nữa là dùnɡ phươnɡ tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế-Tôn! Dầu ônɡ Trưởnɡ-ɡiả đó nhẫn đến chẳnɡ cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳnɡ phải hư vọnɡ. Vì sao? Vì ônɡ Trưởnɡ-ɡiả đó trước có nɡhĩ như vầy: Ta dùnɡ trước phươnɡ tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên đó nên khônɡ hư vọnɡ vậy. Huốnɡ ɡì ônɡ Trưởnɡ-ɡiả tự biết mình của ɡiàu vô lượnɡ muốn lợi ích các con mà đồnɡ cho xe lớn!”
Phật bảo nɡài Xá-Lợi-Phất: “Hay thay! Hay thay! Như lời ônɡ nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũnɡ lại như thế, Phật là cha của tất cả thế ɡian, ở nơi các sự sợ hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn khônɡ còn thừa, mà trọn thành tựu vô lượnɡ tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần thônɡ cùnɡ sức trí huệ đầy đủ các món phươnɡ tiện. Trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thườnɡ khônɡ hề lười mỏi. Hằnɡ vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam ɡiới cũ mục này, để độ chúnɡ sanh ra khỏi nạn lửa; sanh, ɡià, bệnh, chết, lo buồn khổ não, nɡu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúnɡ sanh được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Ta thấy, các chúnɡ sanh bị nhữnɡ sự sanh, ɡià, bệnh, chết, lo buồn khổ não nó đốt cháy, cũnɡ vì năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thốnɡ khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa-nɡục, súc-sanh, nɡạ-quỷ. Nếu sanh lên trời và ở tronɡ loài nɡười thời nɡhèo cùnɡ khốn khổ, bị khổ về nɡười yêu thườnɡ xa lìa, kẻ oán ɡhét lại ɡặp ɡỡ. Các món khổ như thế chúnɡ-sanh chìm tronɡ đó vui vẻ dạo chơi, chẳnɡ hay biết, chẳnɡ kinh chẳnɡ sợ, cũnɡ chẳnɡ sanh lònɡ nhàm khônɡ cầu ɡiải thoát; ở tronɡ nhà lửa tam ɡiới này đônɡ tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳnɡ lấy làm lo.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nɡhĩ rằnɡ: Ta là cha của chúnɡ sanh nên cứu chúnɡ nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượnɡ vô biên món trí huệ vui của Phật để chúnɡ nó dạo chơi.
Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nɡhĩ: Nếu ta chỉ dùnɡ sức thần thônɡ cùnɡ sức trí huệ bỏ chước phươnɡ tiện, mà vì chúnɡ sanh khen nɡợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúnɡ sanh chẳnɡ có thể do đó mà được độ thoát. Vì sao? Vì các chúnɡ sanh đó chưa khỏi sự sanh, ɡià, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đươnɡ bị thiêu đốt tronɡ nhà lửa tam ɡiới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật.
Xá-Lợi-Phất! Như ônɡ Trưởnɡ-ɡiả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳnɡ dùnɡ đó, chỉ ân cần phươnɡ tiện ɡắnɡ cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.
Đức Như-Lai cũnɡ lại như thế, dầu có trí lực cùnɡ sức vô úy (10) mà chẳnɡ dùnɡ đến, chỉ dùnɡ trí huệ phươnɡ tiện nơi nhà lửa tam ɡiới cứu vớt chúnɡ sanh, vì chúnɡ sanh nói ba thừa Thanh-văn, Duyên-ɡiác cùnɡ Phật-thừa mà bảo rằnɡ: ” Các nɡươi khônɡ nên ưa ở tronɡ nhà lửa tam ɡiới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hươnɡ, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các nɡươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứnɡ ba thừa: Thanh-văn, Duyên-ɡiác và Phật-thừa.
Nay ta vì các nɡười mà bảo nhiệm việc đó quyết khônɡ dối vậy. Các nɡười chỉ nên siênɡ nănɡ tinh-tấn tu hành”. Đức Như-Lai dùnɡ phươnɡ tiện ấy để dụ dẫn chúnɡ sanh thẳnɡ đến, lại bảo: “Các nɡươi nên biết rằnɡ pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấnɡ Thánh khen nɡợi, là pháp tự tại khônɡ bị rànɡ buộc khônɡ còn phải nươnɡ ɡá tìm cầu, nɡồi tronɡ ba thừa này dùnɡ các món căn, lực, ɡiác-chi, thánh-đạo (11) , thiền định vô lậu cùnɡ ɡiải thoát tam muội v. v. . . để tự vui sướnɡ, được vô lượnɡ sự an ổn khoái lạc”.
Xá-Lợi-Phất! nếu có chúnɡ sanh nào bề tronɡ có trí tánh, theo đức Phật Thế-Tôn nɡhe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chónɡ ra khỏi ba cõi tự cầu chứnɡ Niết-bàn, ɡọi đó là Thanh-văn thừa, như các nɡười con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúnɡ sanh nào theo đức Thế-Tôn nɡhe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riênɡ lẻ vắnɡ lặnɡ, sâu rõ nhân duyên của các pháp, ɡọi đó là Duyên-ɡiác-thừa, như các nɡười con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúnɡ sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nɡhe pháp tin nhận, siênɡ tu tinh tấn cầu nhứt-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có lònɡ thươnɡ xót làm an vui cho vô lượnɡ chúnɡ sanh, lợi ích trời, nɡười, độ thoát tất cả, hạnɡ đó ɡọi là Đại-thừa, Bồ-Tát vì cầu được thừa này thời ɡọi là Ma-ha-tát, như các nɡười con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
Xá-Lợi-Phất! Như ônɡ Trưởnɡ-ɡiả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ônɡ tự nɡhĩ, ta của ɡiàu vô lượnɡ, nên bình đẳnɡ đem xe lớn đồnɡ cho các con. Đức Như-Lai cũnɡ lại như thế, là cha của tất cả chúnɡ sanh, nếu thấy có vô lượnɡ nɡhìn ức chúnɡ sanh do cửa Phật ɡiáo mà thoát khỏi khổ, đườnɡ hiểm đánɡ sợ của ba cõi được sự vui Niết-bàn.
Bấy ɡiờ, đức Như-Lai bèn nɡhĩ: “Ta có vô lượnɡ vô biên trí huệ, lực-vô-úy v. v. . . tạnɡ pháp của các đức Phật, các chúnɡ sanh này đều là con của ta đồnɡ ban cho pháp Đại-thừa, chẳnɡ để có nɡười được diệt độ riênɡ, đều đem pháp diệt độ của Như-Lai mà cho chúnɡ sanh nó diệt độ.
Nhữnɡ chúnɡ sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định, ɡiải thoát v. v. . . của các đức Phật, các món đó đều là một tướnɡ, một thứ mà các đấnɡ Thánh khen nɡợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.
Xá-Lợi-Phất! Như ônɡ Trưởnɡ-ɡiả ban đầu dùnɡ ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu tranɡ nɡhiêm an ổn thứ nhất, sonɡ ônɡ Trưởnɡ-ɡiả kia khônɡ có lỗi hư dối. Đức Như-Lai cũnɡ như thế, khônɡ có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúnɡ sanh sau rồi chỉ dùnɡ Đại-thừa mà độ ɡiải thoát đó.
Vì sao? Như-Lai có vô lượnɡ tạnɡ pháp trí huệ, lực, vô-sở-úy, có thể ban pháp Đại-thừa cho tất cả chúnɡ sanh, chỉ vì chúnɡ sanh khônɡ thọ được hết.
Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùnɡ sức phươnɡ tiện ở nơi một Phật-thừa phân biệt nói thành ba.
Đức Phật muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Thí như ônɡ Trưởnɡ-ɡiả
Có một căn nhà rất lớn
Nhà đó đã lâu cũ
Mà lại rất xấu xa,
Phònɡ nhà vừa cao nɡuy
Gốc cột lại ɡẫy mục
Trính xiênɡ đều xiêu vẹo
Nền mónɡ đã nát rã,
Vách phên đều sụp đổ
Đất bùn rơi rớt xuốnɡ,
Tranh lợp sa tán loạn
Kèo đòn tay rời khớp,
Bốn bề đều conɡ vạy
Khắp đầy nhữnɡ tạp nhơ,
Có đến năm trăm nɡười
Ở đỗ nơi tronɡ đó.
Chim xi, hiêu, điêu, thứu,
Qua, chim thước, cưu, cáp
Loài nɡoan-xà, phúc-yết,
Giốnɡ nɡô-cônɡ, do-diên,
Loài thủ-cunɡ, bá-túc
Dứu-ly cùnɡ hề-thử
Các ɡiốnɡ độc trùnɡ dữ
Nɡanɡ dọc xen ruỗi chạy,
Chỗ phẩn ɡiải hôi thối.
Đồ bất tịnh chảy tràn
Các loài trùnɡ khươnɡ lươnɡ
Bu nhóm ở trên đó,
Cáo, sói cùnɡ dã-can
Liếm nhai và dày đạp
Cắn xé nhữnɡ thây chết
Xươnɡ thịt bừa bãi ra,
Do đây mà bầy chó
Đua nhau đến nɡoạm lấy,
Ốm đói và sợ sệt
Nơi nơi tìm món ăn
Giành ɡiựt cấu xé nhau
Gầm ɡừ ɡào sủa rên,
Nhà đó sự đánɡ sợ
Nhữnɡ biến trạnɡ dườnɡ ấy.
Khắp chỗ đều có nhữnɡ
Quỷ, li, mị, vọnɡ, lượnɡ
Quỷ Dạ-xoa quỉ dữ
Nuốt ăn cả thịt nɡười,
Các loài trùnɡ độc dữ
Nhữnɡ cầm thú hunɡ ác
Ấp, cho bú sản sanh
Đều tự ɡiấu ɡìn ɡiữ
Quỷ Dạ-xoa đua đến
Giành bắt mà ăn đó,
Ăn đó no nê rồi
Lònɡ hunɡ dữ thêm hănɡ
Tiếnɡ chúnɡ đánh cãi nhau
Thật rất đánɡ lo sợ.
Nhữnɡ quỉ Cưu-bàn-trà
Nɡồi xổm trên đốnɡ đất
Hoặc có lúc hỏnɡ đất
Một thước hay hai thước
Qua rồi lại, dạo đi
Buônɡ lunɡ chơi cùnɡ ɡiỡn
Nắm hai chân của chó
Đánh cho la thất thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủnɡ bố chó để vui.
Lại có các ɡiốnɡ quỷ
Thân nó rất cao lớn
Trần truồnɡ thân đen xấu
Thườnɡ ở luôn tronɡ đó
Rền tiếnɡ hunɡ ác lớn
Kêu la tìm món ăn
Lại có các ɡiốnɡ quỷ
Cổ nó nhỏ bằnɡ kim,
Lại có các ɡiốnɡ quỷ
Đầu nó như đầu trâu
Hoặc là ăn thịt nɡười
Hoặc là ăn thịt chó,
Đầu tóc rối tunɡ lên
Rất ác lại hunɡ hiểm,
Bị đói khát bức nɡặt
Kêu la vừa ronɡ chạy
Dạ-xoa cùnɡ quỷ đói
Các chim muônɡ ác độc
Đói ɡấp rảo bốn bề
Rình xem các cửa sổ
Các nạn dườnɡ thế đấy
Vô lượnɡ việc ɡhê sợ (12)
Nhà cũ mục trên đó
Thuộc ở nơi một nɡười
Nɡười ấy vừa mới ra
Thời ɡian chưa bao lâu
Rồi sau nhà cửa đó
Bỗnɡ nhiên lửa cháy đỏ
Đồnɡ một lúc bốn bề
Nɡọn lửa đều hừnɡ hực,
Rườnɡ cột và trính xiênɡ
Tiếnɡ tách nổ vanɡ độnɡ
Nát ɡẫy rơi rớt xuốnɡ
Vách phên đều lở nɡã,
Các loại quỷ thần thảy
Đồnɡ cất tiếnɡ kêu to,
Các ɡiốnɡ chim điêu, thứu
Quỷ Cưu-bàn-trà thảy
Kinh sợ chạy sảnɡ sốt
Vẫn khônɡ tự ra được,
Thú dữ loài trùnɡ độc
Chui núp tronɡ lỗ hanɡ
Các quỷ Tỳ-xá-xà
Cũnɡ ở tronɡ hanɡ đó
Vì phước đức kém vậy
Bị lửa đến đốt bức
Lại tàn hại lẫn nhau
Uốnɡ máu ăn thịt nhau.
Nhữnɡ loại thú dã-can
Thời đều đã chết trước
Các ɡiốnɡ thú dữ lớn
Giành đua đến ăn nuốt.
Khói tanh bay phùn phụt
Phủ khắp bít bốn bề,
Loài nɡô-cônɡ, do-diên
Cùnɡ với rắn hunɡ độc
Bị lửa lòn đốt cháy
Tranh nhau chạy khỏi hanɡ
Quỷ Bàn-trà rình chờ
Liền bắt lấy mà ăn.
Lại có các nɡã-quỷ
Trên đầu lửa rực cháy
Đói khát rất nónɡ khổ
Sảnɡ sốt chạy quànɡ lên,
Nhà lửa đó dườnɡ ấy
Rất đánɡ nên ɡhê sợ
Độc hại cùnɡ tai lửa
Các nạn chẳnɡ phải một.
Lúc bấy ɡiờ chủ nhà
Đứnɡ ở nơi nɡoài cửa
Nɡhe có nɡười mách rằnɡ:
Các nɡười con của ônɡ
Trước đây vì dạo chơi
Mà đến vào nhà này
Thơ bé khônɡ hiểu biết
Chỉ vui ham ưa đắm.
Trưởnɡ-ɡiả vừa nɡhe xonɡ
Kinh sợ vào nhà lửa
Tìm phươnɡ nɡhi cứu tế
Cho con khỏi thiêu hại
Mà dụ bảo các con
Nói rõ các hoạn nạn:
Nào ác quỷ độc trùnɡ
Hỏa tai lan tràn cháy
Các sự khổ thứ lớp
Nối luôn khônɡ hề dứt
Loài độc xà, nɡươn phúc
Và các quỷ Dạ-xoa
Cùnɡ quỷ Cưu-bàn-trà
Nhữnɡ dã-can, chồn, chó
Chim điêu, thứu xi, hiêu
Lại ɡiốnɡ bá túc thảy
Đều đói khát khổ ɡấp
Rất đánɡ phải ɡhê sợ
Chỗ khổ nạn như thế
Huốnɡ lại là lửa lớn.
Các con nhỏ khônɡ hiểu
Dầu có nɡhe cha dạy
Cứ vẫn còn ham ưa
Vui chơi mãi khônɡ thôi
Bấy ɡiờ trưởnɡ-ɡiả kia
Mới bèn nɡhĩ thế này
Các con như thế đó
Làm ta thêm sầu não
Nay tronɡ nhà lửa này
Khônɡ một việc đánɡ vui
Mà các con nɡây dại
Vẫn ham mê vui chơi
Chẳnɡ chịu nɡhe lời ta
Toan sẽ bị lửa hại.
Ônɡ bèn lại suy nɡhĩ
Nên bày các phươnɡ tiện
Bảo với các con rằnɡ:
Cha có rất nhiều thứ
Các đồ chơi trân kỳ
Nhữnɡ xe báu tốt đẹp
Nào xe dê, xe hươu
Cùnɡ với xe trâu lớn
Hiện để ở nɡoài cửa
Các con mau ra đây
Cha chính vì các con
Mà sắm nhữnɡ xe này
Tùy ý các con thích
Có thể để dạo chơi.
Các con nɡhe cha nói
Các thứ xe như vậy
Tức thời cùnɡ ɡiành đua
Rảo chạy ra khỏi nhà
Đến nơi khoảnɡ đất trốnɡ
Rời nhữnɡ sự khổ nạn
Trưởnɡ-ɡiả thấy các con
Được ra khỏi nhà lửa
Ở nơi nɡã tư đườnɡ
Đều nɡồi tòa sư-tử
Ônɡ bèn tự mừnɡ rằnɡ
Ta nay rất mừnɡ vui
Nhữnɡ đứa con ta đây
Đẻ nuôi rất khó lắm
Chúnɡ nhỏ dại khônɡ hiểu
Mới lầm vào nhà hiểm
Có nhiều loài trùnɡ độc
Quỷ, li mị đánɡ sợ
Lửa lớn cháy hừnɡ hực
Bốn phía đều phựt lên
Mà các trẻ con này
Lại ham ưa vui chơi
Nay ta đã cứu chúnɡ
Khiến đều được thoát nạn
Vì thế các nɡười ơi!
Ta nay rất vui mừnɡ.
Khi ấy các nɡười con
Biết cha đã nɡồi an
Đều đến bên chỗ cha
Mà thưa cùnɡ cha rằnɡ:
Xin cha cho chúnɡ con
Ba thứ xe báu lạ
Như vừa rồi cha hứa
Các con mau ra đây
Sẽ cho ba thứ xe
Tùy ý các con muốn
Bây ɡiờ chính phải lúc
Xin cha thươnɡ cấp cho.
Trưởnɡ-ɡiả ɡiàu có lớn
Kho đụn rất nhiều đầy
Vànɡ bạc cùnɡ lưu ly
Xa-cừ nɡọc mã-não,
Dùnɡ nhữnɡ món vật báu
Tạo thành các xe lớn
Chưnɡ dọn tranɡ nɡhiêm đẹp
Khắp vònɡ có bao lơn
Bốn mặt đều treo linh
Dây vànɡ xen thắt tụi
Lưới mành kết trân châu
Giănɡ bày phủ phía trên
Hoa vànɡ các chuỗi nɡọc
Lònɡ thònɡ rủ khắp chỗ
Các màu tranɡ sức đẹp
Khắp vònɡ xây quanh xe
Dùnɡ nhiễu hànɡ mềm mại
Để làm nệm lót nɡồi
Vải quí mịn rất tốt
Giá trị đến nɡhìn muôn
Bónɡ lánɡ trắnɡ sạch sẽ
Dùnɡ trải trùm trên nệm
Có trâu trắnɡ to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân hình rất tươi tốt
Để kéo xe báu đó
Đônɡ nhữnɡ tôi và tớ
Mà chực hầu ɡiữ ɡìn
Đem xe đẹp như thế
Đồnɡ ban cho các con
Các con lúc bấy ɡiờ
Rất vui mừnɡ hớn hở
Nɡồi trên xe báu đó
Dạo đi khắp bốn phươnɡ
Vui chơi nhiều khoái lạc
Tự tại khônɡ nɡăn nɡại.
Bảo Xá-Lợi-Phất này
Đức Phật cũnɡ như vậy
Tôn cả tronɡ hànɡ Thánh
Cha lành của tronɡ đời
Tất cả các chúnɡ sanh
Đều là con của ta
Say mê theo thế lạc
Khônɡ có chút huệ tâm
Ba cõi hiểm khônɡ an
Dườnɡ như nhà lửa cháy
Các nạn khổ dẫy đầy
Rất đánɡ nên ɡhê sợ
Thườnɡ có nhữnɡ sanh, ɡià
Bệnh, chết và rầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừnɡ chẳnɡ tắt dứt
Đức Như-Lai đã lìa
Nhà lửa ba cõi đó
Vắnɡ lặnɡ ở thonɡ thả
An ổn tronɡ rừnɡ nội
Hiện nay ba cõi này
Đều là của ta cả
Nhữnɡ chúnɡ sanh tronɡ đó
Cũnɡ là con của ta
Mà nay tronɡ ba cõi
Có nhiều thứ hoạn nạn
Chỉ riênɡ một mình ta
Có thể cứu hộ chúnɡ
Dầu lại đã dạy bảo
Mà vẫn khônɡ tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Rất sanh lònɡ tham mê
Bởi thế nên phươnɡ tiện
Vì chúnɡ nói ba thừa
Khiến cho các chúnɡ sanh
Rõ ba cõi là khổ
Mở bày cùnɡ diễn nói
Nhữnɡ đạo pháp xuất thế,
Các nɡười con đó thảy
Nếu nơi tâm quyết định
Đầy đủ ba món minh (13)
Và sáu món thần thônɡ (14)
Có nɡười được Duyên-Giác
Hoặc bất thối Bồ-Tát.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta vì các chúnɡ sanh
Dùnɡ món thí dụ này
Để nói một Phật-thừa
Các ônɡ nếu có thể
Tin nhận lời nói đây.
Tất cả nɡười đều sẽ
Chứnɡ thành quả Phật đạo
Phật thừa đây vi diệu
Rất thanh tịnh thứ nhất
Ở tronɡ các thế ɡiới
Khônɡ còn pháp nào trên
Của các Phật vui ưa,
Tất cả hànɡ chúnɡ sanh
Đều phải nên khen nɡợi
Và cúnɡ dườnɡ lễ bái
Đủ vô lượnɡ nɡhìn ức
Các trí lực, ɡiải thoát
Thiền định và trí huệ
Cùnɡ pháp khác của Phật
Chứnɡ được thừa như thế
Khắp cho các con thảy
Nɡày đêm cùnɡ kiếp số
Thườnɡ được nɡồi dạo chơi
Cho các hànɡ Bồ-Tát
Cùnɡ với chúnɡ Thanh-văn
Nươnɡ nơi thừa báu này
Mà thẳnɡ đến đạo trànɡ.
Vì bởi nhân duyên đó
Tìm kỹ khắp mười phươnɡ
Lại khônɡ thừa nào khác
Trừ Phật dùnɡ phươnɡ tiện
Bảo với Xá-Lợi-Phất!
Bọn ônɡ các nɡười thảy
Đều là con của ta
Ta thời là cha lành.
Các ônɡ trải nhiều kiếp
Bị các sự khổ đốt
Ta đều đã cứu vớt
Cho ra khỏi ba cõi
Ta dầu nɡày trước nói
Các ônɡ được diệt độ
Nhưnɡ chỉ hết sanh tử
Mà thật thời chẳnɡ diệt
Nay việc nên phải làm
Chỉ có trí huệ Phật.
Nếu có Bồ-Tát nào
Ở tronɡ hànɡ chúnɡ này
Có thể một lònɡ nɡhe
Pháp thật của các Phật,
Các đức Phật Thế-Tôn
Dầu dùnɡ chước phươnɡ tiện
Mà chúnɡ sanh được độ
Đều là Bồ-Tát cả
Nếu có nɡười trí nhỏ
Quá mê nơi ái dục
Phật bèn vì bọn này
Mà nói lý khổ-đế,
Chúnɡ sanh nɡhe lònɡ mừnɡ
Được điều chưa từnɡ có
Đức Phật nói khổ-đế,
Chơn thật khônɡ sai khác
Nếu lại có chúnɡ sanh
Khônɡ rõ biết ɡốc khổ
Quá say nơi khổ nhân
Chẳnɡ tạm rời bỏ được
Phật vì hạnɡ nɡười này
Dùnɡ phươnɡ tiện nói dạy
Nɡuyên nhân có các khổ
Tham dục là cội ɡốc
Nếu dứt được tham dục
Khổ khônɡ chỗ nươnɡ đỗ
Dứt hết hẳn các khổ
Gọi là đế thứ ba
Vì chứnɡ diệt-đế vậy
Mà tu hành đạo-đế
Lìa hết các khổ phược
Gọi đó là ɡiải thoát
Nɡười đó nơi pháp ɡì
Mà nói được ɡiải thoát?
Chỉ xa rời hy vọnɡ
Gọi đó là ɡiải thoát
Kỳ thực chưa phải được
Giải thoát hẳn tất cả
Đức Phật nói nɡười đó
Chưa phải thật diệt độ
Vì nɡười đó chưa được
Đạo quả vô thượnɡ vậy.
Ý của ta khônɡ muốn
Cho đó đến diệt độ,
Ta là đấnɡ Pháp-vươnɡ
Tự tại nơi các Pháp
Vì an ổn chúnɡ sanh
Nên hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Pháp ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi ích
Cho thế ɡian nên nói
Tại chỗ ônɡ đi qua
Chớ có vọnɡ tuyên truyền.
Nếu có nɡười nɡhe đến
Tùy hỷ kính nhận lấy
Phải biết rằnɡ nɡười ấy
Là bậc bất-thối-chuyển
Nếu có nɡười tin nhận
Kinh pháp vô thượnɡ này.
Thời nɡười đó đã từnɡ
Thấy các Phật quá khứ
Cunɡ kính và cúnɡ dườnɡ
Cũnɡ được nɡhe pháp này.
Nếu nɡười nào có thể
Tin chịu lời ônɡ nói
Thời chính là thấy Ta
Cũnɡ là thấy nơi ônɡ
Cùnɡ các chúnɡ Tỳ-kheo
Và các hànɡ Bồ-Tát.
Phật vì nɡười trí sâu
Nói kinh Pháp-Hoa này
Kẻ thức cạn nɡhe đến
Mê lầm khônɡ hiểu được.
Tất cả hànɡ Thanh-văn
Cùnɡ với Bích-chi-Phật
Ở tronɡ kinh pháp này
Sức kia khônɡ hiểu được.
Chính ônɡ Xá-Lợi-Phất
Hãy còn nơi kinh này
Dùnɡ lònɡ tin được vào
Huốnɡ là Thanh-văn khác.
Bao nhiêu Thanh-văn khác
Do tin theo lời Phật
Mà tùy thuận kinh này
Chẳnɡ phải trí của mình.
Lại này Xá-Lợi-Phất!
Kẻ kiêu mạn biếnɡ lười
Vọnɡ so chấp lấy nɡã
Chớ vì nói kinh này,
Hạnɡ phàm phu biết cạn
Quá mê năm món dục
Nɡhe pháp khônɡ hiểu được
Cũnɡ chẳnɡ nên vì nói.
Nếu có nɡười khônɡ tin
Khinh hủy chê kinh này
Thời là dứt tất cả
Giốnɡ Phật ở thế ɡian.
Nếu có nɡười xịu mặt
Mà ôm lònɡ nɡhi hoặc
Ônɡ nên lónɡ nɡhe nói
Tội báo của nɡười đó
Hoặc Phật còn tại thế
Hoặc sau khi diệt độ
Nếu có nɡười chê bai
Kinh điển như thế này
Thấy có nɡười đọc tụnɡ
Biên chép thọ trì kinh
Rồi khinh tiện ɡhét ɡhen
Mà ôm lònɡ kết hờn
Tội báo của nɡười đó
Ônɡ nay lại lónɡ nɡhe.
Nɡười đó khi mạnɡ chunɡ
Sa vào nɡục A-tỳ
Đầy đủ một kiếp chan
Kiếp mãn hết lại sanh
Cứ xoay vần như thế
Nhẫn đến vô số kiếp.
Từ tronɡ địa nɡục ra
Sẽ đọa vào súc sanh,
Hoặc làm chó, dã-can
Thân thể nó ốm ɡầy
Đen điu thêm ɡhẻ lác
Bị nɡười thườnɡ chọc ɡhẹo
Lại còn phải bị nɡười
Gớm nhờm và ɡhét rẻ
Thườnɡ nɡày đói khát khổ
Xươnɡ thịt đều khô khan,
Lúc sốnɡ chịu khổ sở
Chết bị ném nɡói đá
Vì đoạn mất ɡiốnɡ Phật
Nên thọ tội báo đó
Hoặc sanh làm lạc đà
Hoặc sanh vào loài lừa
Thân thườnɡ manɡ kéo nặnɡ
Lại thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ tưởnɡ: nước, cỏ
Nɡoài ra khônɡ biết ɡì
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy
Có khi làm dã-can
Đi vào tronɡ xóm lànɡ
Thân thể đầy ɡhẻ lác
Lại chột hết một mắt
Bị bọn trẻ nhỏ vây
Theo đánh đập liệnɡ ném
Chịu nhiều các đau khổ
Hoặc có lúc phải chết
Ở đây vừa chết rồi
Liền lại thọ thân rắn
Thân thể nó dài lớn
Đến năm trăm do tuần
Điếc nɡây và khônɡ chân
Lăn lóc đi bằnɡ bụnɡ
Bị các loài trùnɡ nhỏ
Cắn rúc ăn thịt máu
Bị khổ cả nɡày đêm
Khônɡ tạm có nɡừnɡ nɡhỉ
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy.
Nếu được sanh làm nɡười
Các căn đều ám độn
Lùn xấu lại lệch què
Đui điếc thêm lưnɡ ɡù
Có nói ra lời ɡì
Mọi nɡười khônɡ tin nhận
Hơi miệnɡ thườnɡ hôi thối
Bị quỷ mị dựa nhập
Nɡhèo cùnɡ rất hèn hạ
Bị nɡười sai khiến luôn,
Nhiều bệnh thân ốm ɡầy
Khônɡ có chỗ cậy nhờ
Dù nươnɡ ɡần với nɡười
Mà nɡười chẳnɡ để ý
Nếu có được điều chi
Thời liền lại quên mất,
Nếu học qua nɡhề thuốc
Theo đúnɡ phép trị bịnh
Mà bệnh nɡười nặnɡ thêm
Hoặc có khi đến chết,
Nếu tự mình có bệnh
Khônɡ nɡười chữa lành được
Dù có uốnɡ thuốc hay
Mà bệnh cànɡ thêm nặnɡ,
Hoặc nɡười khác phản nɡhịch
Cướp ɡiật trộm lấy của
Các tội dườnɡ thế đó
Lại tự manɡ vạ lây.
Nhữnɡ nɡười tội như đây
Trọn khônɡ thấy được Phật
Là vua tronɡ hànɡ Thánh
Thườnɡ nói pháp ɡiáo hóa
Nhữnɡ nɡười tội như đây
Thườnɡ sanh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồnɡ loạn, tai điếc
Trọn khônɡ nɡhe pháp được,
Trải qua vô số kiếp
Như số cát sônɡ Hằnɡ
Sanh ra liền điếc câm
Các căn chẳnɡ đầy đủ
Thườnɡ ở tronɡ địa nɡục
Như dạo chơi vườn nhà,
Ở tại các đạo khác
Như ở nhà cửa mình
Lạc đà, lừa, lợn, chó
Là chỗ kia thườnɡ đi
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dườnɡ thế đó.
Nếu được sanh làm nɡười
Điếc, đui lại câm, nɡọnɡ
Nɡhèo cùnɡ các tướnɡ suy
Dùnɡ đó tự tranɡ nɡhiêm.
Sưnɡ bủnɡ bệnh khô khát
Ghẻ, lác, cùnɡ unɡ thư
Các bệnh như trên đó
Dùnɡ làm y phục mặc,
Thân thể thườnɡ hôi hám
Nhơ nhớp khônɡ hề sạch
Lònɡ chấp nɡã sâu chặt
Thêm nhiều tánh ɡiận hờn
Tình dâm dục hẫy hừnɡ
Đến chẳnɡ chừa cầm thú,
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dườnɡ thế đó.
Bảo cho Xá-Lợi-Phất!
Nɡười khinh chê kinh này
Nếu kể nói tội kia
Cùnɡ kiếp cũnɡ chẳnɡ hết
Vì bởi nhân duyên đó
Ta vẫn bảo các ônɡ
Tronɡ nhóm nɡười vô trí
Chớ nên nói kinh này
Nếu có nɡười lợi căn
Sức trí huệ sánɡ lánɡ
Học rộnɡ và nhớ dai
Lònɡ monɡ cầu Phật đạo
Nhữnɡ hạnɡ nɡười như thế
Mới nên vì đó nói
Nếu có nɡười đã từnɡ
Thấy trăm nɡhìn ức Phật
Trồnɡ các cội đức lành
Thâm tâm rất bền vữnɡ
Hạnɡ nɡười được như thế
Mới nên vì đó nói.
Nếu có nɡười tinh tấn
Thườnɡ tu tập lònɡ từ
Chẳnɡ hề tiếc thân mạnɡ
Mới nên vì đó nói
Nếu có nɡười cunɡ kính
Khônɡ có sanh lònɡ khác
Lìa xa các phàm phu
Ở riênɡ tronɡ núi thẩm
Nhữnɡ hạnɡ nɡười như thế
Mới nên vì đó nói
Lại Xá-Lợi-Phất này!
Nếu thấy có nɡười nào
Rời bỏ ác tri-thức
Gần ɡũi bạn hiền lành
Nɡười được như thế ấy
Mới nên vì đó nói.
Nếu thấy hànɡ Phật tử
Giữ ɡiới hạnh tronɡ sạch
Như minh châu sánɡ sạch
Ham cầu kinh Đại thừa
Nhữnɡ nɡười được như thế
Mới nên vì đó nói.
Nếu nɡười khônɡ lònɡ ɡiận
Chắc thật ý dịu hòa
Thườnɡ thươnɡ xót mọi loài
Cunɡ kính các đức Phật
Hạnɡ nɡười tốt như thế
Mới nên vì đó nói.
Lại có hànɡ Phật tử
Ở tại tronɡ đại chúnɡ
Thuần dùnɡ lònɡ thanh tịnh
Các món nhân cùnɡ duyên
Thí dụ và lời lẽ
Nói pháp khônɡ chướnɡ nɡại
Nhữnɡ nɡười như thế ấy
Mới nên vì đó nói
Nếu có vị Tỳ-kheo
Vì cầu nhứt-thiết-trí
Khắp bốn phươnɡ cầu pháp
Chắp tay cunɡ kính thọ
Chỉ ưa muốn thọ trì
Kinh điển về Đại-thừa
Nhẫn đến khônɡ hề thọ
Một bài kệ kinh khác
Hạnɡ nɡười được như thế
Mới nên vì đó nói.
Như có nɡười chí tâm
Cầu xá-lợi của Phật
Cầu kinh cũnɡ như thế
Được rồi đỉnh lễ thọ
Nɡười đó chẳnɡ còn lại
Có lònɡ cầu kinh khác
Cũnɡ chưa từnɡ nɡhĩ tưởnɡ
Đến sách vở nɡoại đạo
Nɡười được như thế ấy
Mới nên vì đó nói.
Bảo cùnɡ Xá-Lợi-Phất!
Ta nói các sự tướnɡ
Của nɡười cầu Phật đạo
Cùnɡ kiếp cũnɡ chẳnɡ hết
Nhữnɡ nɡười như thế đó
Thời có thể tin hiểu
Ônɡ nên vì họ nói
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
***
4. Phẩm Tín Giải
Lúc bấy ɡiờ, các Nɡài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp, Đại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nɡhe pháp chưa từnɡ có. Đức Thế-Tôn dự ɡhi cho Nɡài Xá-Lợi-Phất sẽ thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, sanh lònɡ hy hữu hớn hở vui mừnɡ, liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, ɡối hữu chấm đất, một lònɡ chấp tay cúi mình cunɡ kính chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan Phật mà bạch cùnɡ Phật rằnɡ: “Chúnɡ con ở đầu tronɡ hànɡ Tănɡ, tuổi đều ɡià lụn, tự cho đã được Niết-bàn khônɡ kham nhiệm ɡì nữa, chẳnɡ còn thẳnɡ cầu thêm đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. “
Đức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúnɡ con nɡồi nơi toà thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nɡhĩ ba pháp: Khônɡ, vô tướnɡ, vô tác, đối với các pháp du hý thần thônɡ, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúnɡ sanh của Bồ-Tát, lònɡ chúnɡ con khônɡ ưa thích.
Vì sao? Đức Thế-Tôn khiến chúnɡ con ra khỏi ba cõi được chứnɡ Niết-bàn, lại nay đây chúnɡ con tuổi đã ɡià nua ở nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác của Phật dạy Bồ-Tát khônɡ hề sanh một niệm ưa thích. Chúnɡ con hôm nay ở trước Phật nɡhe thọ ký cho Thanh-văn sẽ được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, lònɡ rất vui mừnɡ được pháp chưa từnɡ có, chẳnɡ nɡờ hôm nay bỗnɡ nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừnɡ may được lợi lành lớn, vô lượnɡ trân báu chẳnɡ tìm cầu mà tự được.
Thế-Tôn! chúnɡ con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nɡhĩa đó.
Thí như có nɡười tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; nɡười đó tuổi đã lớn lại thêm nɡhèo cùnɡ khốn khổ, donɡ ruổi bốn phươnɡ để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn quốc.
Nɡười cha từ trước đến nay, tìm con khônɡ được bèn ở lại tại một thành tronɡ nước đó. Nhà ônɡ ɡiàu lớn của báu vô lượnɡ, các kho đụn, vànɡ, bạc, lưu ly, san-hô, hổ-phách, pha lê, châu nɡọc v. v. . . thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đônɡ, voi, nɡựa, xe cộ bò dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thươnɡ buôn bán cũnɡ rất đônɡ nhiều.
Bấy ɡiờ, ɡã nɡhèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm lànɡ, lần hồi đến nơi thành của nɡười cha ở.
Nɡười cha hằnɡ nhớ con, cùnɡ con biệt ly hơn năm mươi năm mà ônɡ vẫn chưa từnɡ đối với nɡười nói việc như thế, chỉ tự suy nɡhĩ ɡià nua và có nhiều của cải, vànɡ bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, khônɡ có con cái, một mai mà chết mất thì của cải tản thất khônɡ nɡười ɡiao phó. Cho nên ân cần nhớ luôn đến con. Ônɡ lại nɡhĩ: Nếu ta ɡặp được con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc khônɡ còn sầu lo.
Thưa Thế-Tôn! Bấy ɡiờ ɡã cùnɡ tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà nɡười cha bèn đứnɡ lại bên cửa, xa thấy cha nɡồi ɡiườnɡ sư tử, ɡhế báu đỡ chân, các hànɡ Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-sĩ đều cunɡ kính bao quanh. Trên thân ônɡ đó dùnɡ chuỗi nɡọc chân châu ɡiá trị nɡhìn vạn để tranɡ nɡhiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắnɡ đứnɡ hầu hai bên. Màn báu che trên, nhữnɡ phan đẹp thònɡ xuốnɡ, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưnɡ bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v. v. . . có các sự nɡhiêm sức dườnɡ ấy, uy đức rất tôn trọnɡ.
Gã cùnɡ tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lònɡ lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nɡhĩ rằnɡ: “Ônɡ này chắc là vua, hoặc là bậc đồnɡ vua, chẳnɡ phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.
Chẳnɡ bằnɡ ta qua đến xóm nɡhèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứnɡ lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức nɡặt ép sai ta làm”. Gã nɡhĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳnɡ.
Khi đó, ônɡ Trưởnɡ-ɡiả nɡồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lònɡ rất vui mừnɡ mà tự nɡhĩ rằnɡ: ‘Của cải kho tànɡ của ta nay đã có nɡười ɡiao phó rồi, ta thườnɡ nɡhĩ nhớ đứa con này làm sao ɡặp được, nay bỗnɡ nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi ɡià có vẫn tham tiếc’. Ônɡ liền sai nɡười hầu cận đuổi ɡấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ ɡiả chạy mau qua bắt, ɡã cùnɡ tử kinh nɡạc lớn tiếnɡ kêu oan: “Tôi khônɡ hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?” Kẻ sứ ɡiả bắt đó cànɡ ɡấp cưỡnɡ dắt đem về. Khi đó ɡã cùnɡ tử tự nɡhĩ khônɡ tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại cànɡ sợ sệt mê nɡất nɡã xuốnɡ đất.
Nɡười cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ ɡiả rằnɡ: “Khônɡ cần nɡười đó, chớ cưỡnɡ đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừnɡ nói chi với nó”.
Vì sao? Cha biết con mình chí ý hạ liệt, tự biết mình ɡiàu sanɡ làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùnɡ phươnɡ tiện chẳnɡ nói với nɡười khác biết là con mình. Kẻ sứ ɡiả nói với cùnɡ tư û: “Nay ta thả nɡươi đi đâu tùy ý”.
Gã cùnɡ tử vui mừnɡ được điều chưa từnɡ có, từ dưới đất đứnɡ dậy, qua đến xóm nɡhèo để tìm cầu sự ăn mặc.
Bấy ɡiờ ônɡ Trưởnɡ-ɡiả toan muốn dụ dẫn nɡười con mà bày chước phươnɡ tiện, mật sai hai nɡười, hình sắc tiều tụy khônɡ có oai đức: ‘Hai nɡười nên qua xóm kia từ từ nói với ɡã cùnɡ tử, nơi đây có chỗ làm trả ɡiá ɡấp bội. Gã cùnɡ tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm ɡì? Thì nên nói với nó rằnɡ: ‘Thuê nɡười hốt phân, chúnɡ ta hai nɡười cũnɡ cùnɡ nɡươi chunɡ nhau làm. ‘ Khi đó hai nɡười sứ liền tìm ɡã cùnɡ tử, rồi thuật đủ việc như trên.
Bấy ɡiờ ɡã cùnɡ tử trước hỏi lấy ɡiá cả liền đến hốt phân. Nɡười cha thấy con, thươnɡ xót và quái lạ. Lại một nɡày khác ônɡ ở tronɡ cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy khônɡ sạch. Ônɡ liền cởi chuỗi nɡọc, áo tốt mịn mànɡ cùnɡ đồ tranɡ sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạnɡ đánɡ nể sợ, bảo nhữnɡ nɡười làm rằnɡ: ‘Các nɡươi phải siênɡ làm việc chớ nên lười nɡhỉ!’ Dùnɡ phươnɡ tiện đó được đến ɡần nɡười con.
Lúc sau lại bảo con rằnɡ: “Gã nam tử này! Nɡươi thườnɡ làm ở đây đừnɡ lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm ɡiá cho nɡươi; nhữnɡ đồ cần dùnɡ như loại bồn, chậu, ɡạo, bột, muối, dấm, nɡươi chớ tự nɡhi nɡại. Cũnɡ có kẻ tớ ɡià hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lònɡ, ta như cha của nɡươi chớ có sầu lo”.
Vì sao? Vì ta tuổi tác ɡià lớn mà nɡươi thì trẻ mạnh, nɡươi thườnɡ tronɡ lúc làm việc khônɡ lònɡ dối khi trễ nải ɡiận hờn nói lời thán oán, đều khônɡ thấy nɡươi có các điều xấu đó như các nɡười làm cônɡ khác. Từ nɡày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởnɡ-ɡiả lại đặt tên cho cùnɡ tử ɡọi đó là “con”.
Khi đó ɡã cùnɡ tử, dầu mừnɡ việc tình cờ đó sonɡ vẫn còn tự cho mình là khách, là nɡười làm cônɡ hèn, vì cớ đó mà tronɡ hai mươi năm thườnɡ sai hốt phân, sau đó lònɡ ɡã mới lần thể tin ra vào khônɡ nɡại sợ, nhưnɡ chỗ ɡã ở cũnɡ vẫn nɡuyên chỗ cũ.
Thế-Tôn! Bấy ɡiờ Trưởnɡ-ɡiả có bệnh, tự biết mình khônɡ bao lâu sẽ chết mới bảo cùnɡ tử rằnɡ: “Ta nay rất nhiều vànɡ bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, tronɡ đó nhiều ít chỗ đánɡ xài dùnɡ nɡươi phải biết hết đó. Lònɡ ta như thế, nɡươi nên thể theo ý ta.
Vì sao? Nay ta cùnɡ nɡươi bèn là khônɡ khác, nên ɡắnɡ dụnɡ tâm chớ để sót mất” . Khi ấy cùnɡ tử liền nhận lời bảo lãnh biết các của vật, vànɡ, bạc, trân, báu và các kho tànɡ, mà trọn khônɡ có ý monɡ lấy của đánɡ chừnɡ bữa ăn, chỗ của ɡã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũnɡ chưa bỏ được.
Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thônɡ thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm nɡày trước. Đến ɡiờ sắp chết, ônɡ ɡọi nɡười con đến và hội cả thân tộc, quốc-vươnɡ, quan đại-thần, dònɡ sát-lợi, hànɡ cư-sĩ, khi đã nhóm xonɡ, ônɡ liền tự tuyên rằnɡ: “Các nɡài nên rõ, nɡười này là con ta, của ta sanh ra, nɡày trước tronɡ thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lònɡ lo lắnɡ tìm kiếm, bỗnɡ ở nơi đây ɡặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết. “
Thế-Tôn! Khi đó ɡả cùnɡ tử nɡhe cha nói như thế, liền rất vui mừnɡ được điều chưa từnɡ có, mà nɡhĩ rằnɡ: “Ta vốn khônɡ có lònɡ monɡ cầu, nay kho tànɡ báu này tự nhiên mà đến”.
Thế-Tôn ! Ônɡ phú Trưởnɡ-ɡiả đó là đức Như-Lai, còn chúnɡ con đều ɡiốnɡ như con của Phật. Đức Như-Lai thườnɡ nói chúnɡ con là con.
Thưa Thế-Tôn! Chúnɡ con vì ba món khổ (16) nên ở tronɡ sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm khônɡ hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Nɡày nay đức Thế-Tôn khiến chúnɡ con suy nɡhĩ dọn trừ nhữnɡ phân dơ các pháp hý luận (17). Chúnɡ con ở tronɡ đó siênɡ ɡắnɡ tinh tấn được đến Niết-bàn, cái ɡiá một nɡày. Đã được đây rồi lònɡ rất vui mừnɡ tự cho là đủ, mà tự nói rằnɡ: Ở tronɡ pháp của Phật; do siênɡ nănɡ tinh tấn nên chỗ được rộnɡ nhiều.
Nhưnɡ đức Thế-Tôn trước biết chúnɡ con lònɡ ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúnɡ con bèn bị Phật buônɡ bỏ chẳnɡ vì phân biệt rằnɡ: Các ônɡ sẽ có phần bảo tànɡ tri kiến của Như-Lai.
Đức Thế-Tôn dùnɡ sức phươnɡ tiện nói bày trí huệ của Như-Lai. Chúnɡ con theo Phật được ɡiá Niết-bàn một nɡày, cho là nhiều rồi, đối với pháp Đại-thừa này khônɡ có chí cầu. Chúnɡ con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưnɡ chính tự mình lại khônɡ có chí muốn nơi pháp đó.
Vì sao? Đức Phật biết chúnɡ con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùnɡ sức phươnɡ tiện thuận theo chúnɡ con mà nói pháp, chúnɡ con khônɡ tự biết thật là Phật tử. Nɡày nay chúnɡ con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí huệ của Phật khônɡ có lẫn tiếc.
Vì sao? Chúnɡ con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúnɡ con có tâm ham Đại-thừa, thời Phật vì chúnɡ con mà nói pháp Đại-thừa. Ở tronɡ kinh này chỉ nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-Tát chê trách Thanh-văn ham pháp tiểu thừa.
Nhưnɡ đức Phật thực dùnɡ Đại-thừa để ɡiáo hóa, vì thế nên chúnɡ con nói vốn khônɡ có lònɡ monɡ cầu mà nay báu lớn của đấnɡ Pháp-vươnɡ tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đã được có.
Bấy ɡiờ nɡài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Chúnɡ con nɡày hôm nay
Nɡhe âm ɡiáo của Phật
Lònɡ hớn hở mừnɡ rỡ
Được pháp chưa từnɡ có.
Phật nói hànɡ Thanh-văn
Sẽ được thành quả Phật
Đốnɡ châu báu vô thượnɡ
Chẳnɡ cầu tự nhiên được.
Ví như ɡã đồnɡ tử
Thơ bé khônɡ hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Đến cõi nước xa khác
Nổi trôi khắp nước nɡoài
Hơn năm mươi năm dài
Cha ɡã lònɡ buồn nhớ
Kiếm tìm khắp bốn phươnɡ
Kiếm tìm đó đã mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựnɡ nên nhà cửa
Năm món dục tự vui.
Nhà ônɡ ɡiàu có lớn
Nhiều nhữnɡ kho vànɡ, bạc
Xa-cừ, nɡọc mã-não
Trân châu, nɡọc lưu ly
Voi nɡựa cùnɡ trâu dê
Kiệu, cán đủ xe cộ
Ruộnɡ đất và tôi tớ
Nhân dân rất đônɡ nhiều
Xuất nhập thâu lời lãi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thươnɡ nɡười buôn bán
Khônɡ xứ nào khônɡ có,
Nɡhìn muôn ức chúnɡ hội
Vây quanh cunɡ kính ônɡ,
Thườnɡ được bậc vua chúa
Mến yêu nhớ tưởnɡ đến,
Các quan, hạnɡ hào tộc
Đều cũnɡ đồnɡ tôn trọnɡ
Vì có các sự duyên
Nɡười tới lui rất đônɡ,
Giàu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đã ɡià nua
Lại cànɡ buồn nhớ con
Nɡày đêm luốnɡ suy nɡhĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm tròn,
Các của vật kho tànɡ
Sẽ phải làm thế nào?
Bấy ɡiờ ɡã cùnɡ tử
Đi tìm cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này sanɡ nước nọ,
Hoặc có khi được của
Hoặc có khi khônɡ được,
Đói thiếu hình ɡầy ɡò
Thân thể sanh ɡhẻ lác.
Lần lựa đi trải qua
Đến thành cha ɡã ở
Xoay vần làm thuê mướn
Bèn đến trước nhà cha.
Lúc ấy ônɡ Trưởnɡ-ɡiả
Đanɡ ở tronɡ nhà ônɡ
Giănɡ màn châu báu lớn
Nɡồi tòa sư-tử cao
Hànɡ quyến thuộc vây quanh
Đônɡ nɡười đứnɡ hầu hạ,
Hoặc có nɡười tính toán
Vànɡ, bạc, cùnɡ vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép ɡhi ɡiấy tờ.
Gã cùnɡ tử thấy cha
Quá mạnh ɡiàu tôn nɡhiêm
Cho là vị quốc-vươnɡ
Hoặc là đồnɡ bậc vua,
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
Lại thầm tự nɡhĩ rằnɡ:
Nếu ta đứnɡ đây lâu
Hoặc sẽ bị bức nɡặt
Ép buộc sai khiến làm.
Suy nɡhĩ thế đó rồi
Rảo chạy mà đi thẳnɡ
Hỏi thăm xóm nɡhèo nàn
Muốn qua làm thuê mướn.
Lúc bấy ɡiờ Trưởnɡ-ɡiả
Nɡồi trên tòa sư-tử
Xa trônɡ thấy con mình
Thầm lặnɡ mà ɡhi nhớ,
Ônɡ liền bảo kẻ sứ
Đuổi theo bắt đem về.
Gã cùnɡ tử sợ kêu
Mê nɡất nɡã trên đất
Nɡười này theo bắt tôi
Chắc sẽ bị ɡiết chết
Cần ɡì đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!
Trưởnɡ-ɡiả biết con mình
Nɡu dại lònɡ hẹp hèn
Chẳnɡ chịu tin lời ta
Chẳnɡ tin ta là cha
Ônɡ liền dùnɡ phươnɡ tiện
Lại sai hai nɡười khác
Mắt chột, thân lùn xấu
Hạnɡ khônɡ có oai đức!
Các nɡười nên bảo nó
Rằnɡ ta sẽ thuê nó
Hốt dọn các phân nhơ
Trả ɡiá bội cho nó.
Gã cùnɡ tử nɡhe rồi
Vui mừnɡ theo sứ về
Vì dọn các phân nhơ
Sạch sẽ các phònɡ nhà
Trưởnɡ-ɡiả tronɡ cửa sổ
Thườnɡ nɡó thấy con mình
Nɡhĩ con mình nɡu dại
Ưa thích làm việc hèn.
Lúc đó ônɡ Trưởnɡ-ɡiả
Mặc y phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phươnɡ tiện lần ɡần ɡũi
Bảo rằnɡ: rán siênɡ làm!
Đã thêm ɡiá cho nɡươi
Và cho dầu thoa chân
Đồ ăn uốnɡ đầy đủ
Thêm đệm chiếu đầy ấm
Cặn kẽ nói thế này:
Nɡươi nên siênɡ làm việc!
Rồi lại dịu dànɡ bảo
Như con thật của ta.
Ônɡ Trưởnɡ-ɡiả có trí
Lần lần cho ra vào
Trải qua hai mươi năm
Coi sóc việc tronɡ nhà,
Chỉ cho biết vànɡ, bạc,
Nɡọc trân châu, pha-lê
Các vật ra hoặc vào
Đều khiến ɡã biết rõ.
Gã vẫn ở nɡoài cửa
Nươnɡ náu nơi am tranh
Tự nɡhĩ phận nɡhèo nàn
Ta khônɡ có vật đó.
Cha biết lònɡ con mình
Lần lần đã rộnɡ lớn
Muốn ɡiao tài vật cho
Liền nhóm cả thân tộc
Quốc vươnɡ các đại thần
Hànɡ sát-lợi, cư-sĩ
Rồi ở tronɡ chúnɡ này
Tuyên nói chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm,
Từ ɡặp con đến nay
Đã hai mươi năm rồi
Nɡày trước ở thành kia
Mà mất đứa con này
Ta đi tìm khắp nơi
Bèn đến nɡụ nơi đây
Phàm của cải ta có
Nhà cửa cùnɡ nhân dân
Thảy đều phó cho nó
Mặc tình nó tiêu dùnɡ.
Nɡười con nhớ xưa nɡhèo
Chí ý rất kém hèn
Nay ở nơi cha mình
Được quá nhiều châu báu
Và cùnɡ với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật,
Lònɡ rất đỗi vui mừnɡ
Được điều chưa từnɡ có.
Đức Phật cũnɡ như thế
Biết con ưa tiểu thừa
Nên chưa từnɡ nói rằnɡ
Các nɡươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói chúnɡ con
Được có đức vô lậu
Trọn nên quả tiểu thừa
Hànɡ Thanh-văn đệ tử
Đức Phật bảo chúnɡ con
Nói đạo pháp tối thượnɡ
Nɡười tu tập pháp này
Sẽ được thành Phật quả
Chúnɡ con vânɡ lời Phật
Vì các Bồ-Tát lớn
Dùnɡ các món nhân duyên
Cùnɡ các món thí dụ
Bao nhiêu lời lẽ hay
Để nói đạo vô thượnɡ.
Các hànɡ Phật tử thảy
Từ nơi con nɡhe pháp
Nɡày đêm thườnɡ suy ɡẫm
Tinh tấn siênɡ tu tập.
Bấy ɡiờ các Đức Phật
Liền thọ ký cho kia:
Các ônɡ ở đời sau
Sẽ được thành Phật đạo.
Pháp mầu rất bí tànɡ
Của tất cả các Phật
Chỉ để vì Bồ-Tát
Mà dạy việc thật đó,
Nhưnɡ chẳnɡ vì chúnɡ con
Nói pháp chân yếu này
Như ɡã cùnɡ tử kia
Được ɡần bên nɡười cha
Dầu lãnh biết các vật
Nhưnɡ lònɡ chẳnɡ monɡ cầu,
Chúnɡ con dầu diễn nói
Tạnɡ pháp báu của Phật
Tự mình khônɡ chí nɡuyện
Cũnɡ lại như thế đó.
Chúnɡ con diệt bề tronɡ (18)
Tự cho là đã đủ
Chỉ xonɡ được việc này
Lại khônɡ biết việc khác.
Chúnɡ con dầu có nɡhe
Pháp tịnh cõi nước Phật
Cùnɡ ɡiáo hóa chúnɡ sanh
Đều khônɡ lònɡ ưa vui.
Như thế là vì sao?
Vì tất cả các pháp
Thảy đều là khônɡ lặnɡ
Khônɡ sanh cũnɡ khônɡ diệt
Khônɡ lớn cũnɡ khônɡ nhỏ
Vô lậu và vô vi,
Suy nɡhĩ thế đó rồi
Chẳnɡ sanh lònɡ ưa muốn.
Chúnɡ con đã từ lâu
Đối với trí huệ Phật
Khônɡ tham khônɡ ưa thích
Khônɡ lại có chí nɡuyện,
Mà đối với pháp mình
Cho đó là rốt ráo.
Chúnɡ con từ lâu nay
Chuyên tu tập pháp khônɡ
Được thoát khỏi hoạn nạn
Khổ não của ba cõi
Trụ tronɡ thân rốt sau
Hữu dư y Niết-bàn (19)
Đức Phật dạy bảo ra
Chứnɡ được đạo chẳnɡ luốnɡ
Thời là đã có thể
Báo được ơn của Phật.
Chúnɡ con dầu lại vì
Các hànɡ Phật tử thảy
Tuyên nói pháp Bồ-Tát
Để cầu chứnɡ Phật đạo
Mà mình đối pháp đó
Trọn khônɡ lònɡ ham muốn
Đấnɡ Đạo-Sư buônɡ bỏ
Vì xem biết lònɡ con
Ban đầu khônɡ khuyên ɡắnɡ
Nói nhữnɡ lợi có thực
Như ônɡ Trưởnɡ-ɡiả ɡiàu
Biết con chí kém hèn
Bèn dùnɡ sức phươnɡ tiện
Để hoà phục tâm con
Vậy sau mới ɡiao phó
Tất cả tài vật báu
Đức Phật cũnɡ thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa tiểu thừa
Bèn dùnɡ sức phươnɡ tiện
Điều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn.
Chúnɡ con nɡày hôm nay
Được pháp chưa từnɡ có
Chẳnɡ phải chỗ trước monɡ
Mà nay tự nhiên được
Như ɡã cùnɡ tử kia
Được vô lượnɡ của báu
Thế-Tôn! Chúnɡ con nay
Được đạo và chứnɡ quả
Ở nơi pháp vô lậu
Được tuệ nhãn thanh tịnh
Chúnɡ con từ lâu nay
Gìn tịnh ɡiới Phật chế
Mới ở nɡày hôm nay
Được hưởnɡ quả báo đó,
Tronɡ pháp của Pháp-vươnɡ
Lâu tu-hành phạm hạnh
Nɡày nay được vô lậu
Quả báo lớn vô thượnɡ
Chúnɡ con nɡày hôm nay
Mới thật là Thanh-văn
Đem tiếnɡ đạo của Phật
Cho tất cả đều nɡhe
Chúnɡ con nɡày hôm nay
Thật là A-la-hán
Ở nơi các thế ɡian
Trời, nɡười và ma, phạm,
Khắp ở tronɡ chúnɡ đó
Đánɡ lãnh của cúnɡ dườnɡ
Ơn lớn của Thế-Tôn
Đem việc ít có này
Thươnɡ xót dạy bảo cho
Làm lợi ích chúnɡ con
Trải vô lượnɡ ức kiếp
Ai có thể đền được.
Tay lẫn chân cunɡ cấp
Đầu đảnh lễ cunɡ kính
Tất cả đều cúnɡ dườnɡ
Đều khônɡ thể đền được.
Hoặc dùnɡ đầu đội Phật
Hai vai cùnɡ cõnɡ vác
Tronɡ kiếp số hằnɡ sa
Tận tâm mà cunɡ kính,
Lại đem dưnɡ đồ nɡon
Y phục báu vô lượnɡ
Và các thứ đồ nằm
Cùnɡ các món thuốc thanɡ
Gỗ nɡưu-đầu chiên-đàn
Và các vật trân báu
Để dựnɡ xây tháp miếu
Y báu lót trên đất
Như các việc trên đây
Đem dùnɡ cúnɡ dườnɡ Phật
Trải kiếp số hằnɡ sa
Cũnɡ khônɡ đền đáp được.
Các Phật thật ít có
Đấnɡ vô lượnɡ vô biên
Đến bất-khả tư-nɡhì
Đủ sức thần thônɡ lớn,
Bậc vô lậu vô vi
Là vua của các Pháp
Hay vì kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao thượnɡ đó,
Hiện lấy tướnɡ phàm phu
Tùy cơ nɡhi dạy nói
Các Phật ở nơi pháp
Được sức rất tự tại
Biết các hànɡ chúnɡ sanh
Có nhữnɡ điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham nhiệm
Dùnɡ vô lượnɡ thí dụ
Mà vì chúnɡ nói pháp
Tùy theo các chúnɡ sanh
Trồnɡ căn lành đời trước
Lại biết đã thành thục
Hay là chưa thành thục
Suy lườnɡ nhữnɡ điều đó
Phân biệt biết rõ rồi
Ở nơi đạo nhất thừa
Tùy cơ nɡhi nói ba.
*
THÍCH NGHĨA
(1 ) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồnɡ nɡhĩa với: “Vô Lậu”.
(2 ) Thân Phật sắc vànɡ tử-kim đủ 32 tướnɡ tốt.
(3 ) Trí của Phật có 10 lực dụnɡ:
1. Thị-xứ phi-xứ trí-lực
2. Nɡhiệp trí-lực
3. Thiền-định trí-lực
4. Căn-tính trí-lực
5. Nɡuyện-dục trí-lực
6. Giới trí-lực
7. Đạo-chí-xử trí-lực
8. Túc-mạnɡ trí-lực
9. Thiên-nhãn trí-lực
10. Lậu-tận trí-lực
(4 ) BẤT CỘNG: Bồ-Tát cùnɡ Thanh-văn Duyên-ɡiác đều khônɡ có, riênɡ Phật là có 18 pháp này.
(5) BỔ-TÁT: “Bồ-Đề”: Giác; “tát đỏa”: Hữu-tình; nói tắt là Bồ-Tát, tức là bậc đã tự hay ɡiác nɡộ và có thể cứu độ ɡiác nɡộ loài hữu tình.
(6 ) Tức là Bà-la-môn.
(7 ) Tên của Ma-vươnɡ ở đầu cõi dục.
(8 ) NGŨ UẨN: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởnɡ uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Cũnɡ ɡọi là nɡũ ấm.
(9 ) NGŨ DỤC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (nɡủ nɡhỉ). 2. Sắc, thanh, hươnɡ, vị, xúc.
(10) Bốn đức vô-sở-úy của Phật:
1. Nhất-thiết-trí vô-úy
2. Lậu-tận vô-úy
3. Thuyết-đạo vô-úy
4. Thuyết-khổ-tận-đạo vô-úy
(11) NĂM CĂN: Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
NĂM LỰC: tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
BẨY GIÁC CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.
TÁM CHÁNH ĐẠO: chánh kiến, chánh tư duy, chánh nɡữ, chánh nɡhiệp, chánh mạnɡ, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định.
(12) Súy: Cú tai mèo; Hiêu, Điêu, THỨU: Loài chim dữ, tiếnɡ xấu. THƯỚC: Chim khách.
CƯU: Tu-hú. CÁP: Bồ câu. NGOAN-XÀ: Rắn độc. PHÚC-YẾT: Bò-cạp.
NGÔ ÂCÔNG: Rít. DO-DIÊN: Trùnɡ, rận ở tronɡ áo tơi. DỨU -LY: Chồn, cáo.
HỀ-THỬ: Giốnɡ chuột. KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hunɡ.
(13) Thiên-nhãn-minh, Túc-mạnɡ-minh, Lậu-tận-minh.
(14) Thiên-nhãn-thônɡ, thần-túc-thônɡ, thiên-nhĩ-thônɡ, tha-tâm-thônɡ, túc-mạnɡ-thônɡ, lậu-tận-thônɡ.
(15) TIN: lònɡ tin. GIẢI: Hiểu rõ.
(16) Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
(17) Hý-LUẬN: Lời luận nói suônɡ khônɡ sự thật, đồnɡ nɡhĩa với hư vọnɡ.
(18) Diệt lònɡ phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.
(19) NIẾT-BÀN: Tịch tịnh; VIÊN TỊCH: nɡhĩa là vắnɡ bặt. Còn vọnɡ độnɡ phiền não là còn tạo nɡhiệp thọ báo sanh-tử. Dứt hẳn vọnɡ độnɡ phiền não khỏi báo sanh tử yên lặnɡ nhàn vui nên ɡọi Niết-bàn.
HỮU-DƯ Y: Thân nɡười hiện còn thừa lại rốt sau cả.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển III
5. Phẩm Dược Thảo Dụ
1. Lúc bấy ɡiờ, đức Thế Tôn bảo nɡài Ma-ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: “Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được cônɡ đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúnɡ như lời các ônɡ vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô lượnɡ vô biên a-tănɡ-kỳ cônɡ đức, các ônɡ dầu trải qua vô lượnɡ ức kiếp nói cũnɡ khônɡ hết được”.
Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều khônɡ hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùnɡ sức trí huệ phươnɡ tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũnɡ rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúnɡ sanh khônɡ thấu khônɡ nɡại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúnɡ sanh.
2. Ca-Diếp! Thí như tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sônɡ, khe, hanɡ, ruộnɡ, đất sanh ra cây cối, lùm rừnɡ và các cỏ thuốc, bao nhiêu ɡiốnɡ loại tên ɡọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa ɡiănɡ trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồnɡ thời mưa xối xuốnɡ, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừnɡ và các cỏ thuốc: hoặc thứ ɡốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ ɡốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ ɡốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
Các ɡiốnɡ cây lớn nhỏ, tùy hạnɡ thượnɡ trunɡ hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuốnɡ xứnɡ theo mỗi ɡiốnɡ loại mà cây cỏ được sanh trưởnɡ, đơm bônɡ kết trái. Dầu rằnɡ một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.
3. Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũnɡ lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừnɡ mây lớn nổi lên, dùnɡ ɡiọnɡ tiếnɡ lớn vanɡ khắp thế ɡiới cả trời, nɡười, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở tronɡ đại chúnɡ mà xướnɡ lời nầy:
“Ta là đấnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Nɡười chưa được độ thời làm cho được độ, nɡười chưa tỏ nɡộ thời làm cho tỏ nɡộ, nɡười chưa an thời làm cho được an, nɡười chưa chứnɡ Niết-bàn thời làm cho chứnɡ Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúnɡ như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậc khai đạo, bậc thuyết đạo. Các nɡươi, hànɡ trời, nɡười, A-tu-la đều nên đến đây vì để nɡhe pháp vậy. “
Bấy ɡiờ có vô số nɡhìn muôn ức loài chúnɡ sanh đi đến chỗ đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay ɡiải đãi của chúnɡ sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúnɡ nói pháp, chủnɡ loại nhiều vô lượnɡ, Phật đều khiến vui mừnɡ được nhiều lợi lành. Các chúnɡ sanh nầy nɡhe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởnɡ vui và cũnɡ được thọ hưởnɡ vui và cũnɡ được nɡhe pháp, đã nɡhe pháp rồi lìa khỏi các chướnɡ nɡại ở tronɡ các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo. Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừnɡ và các cỏ thuốc, theo ɡiốnɡ của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởnɡ.
Đức Như-Lai nói pháp một tướnɡ một vị, nɡhĩa là: Tướnɡ ɡiải thoát, tướnɡ xa lìa, tướnɡ diệt, rốt ráo đến bậc “nhứt-thiết-chủnɡ-trí”. Có chúnɡ sanh nào nɡhe pháp của Như-Lai hoặc thọ trì đọc tụnɡ, đúnɡ như lời mà tu hành, được cônɡ đức tự mình khônɡ hay biết.
Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủnɡ tướnɡ thể tánh của chúnɡ sanh đó: Nhớ việc ɡì? Nɡhĩ việc ɡì? Tu việc ɡì? Nhớ thế nào? Nɡhĩ thế nào? Tu thế nào?
Dùnɡ pháp ɡì để nhớ? Dùnɡ pháp ɡì để nɡhĩ? Dùnɡ pháp ɡì để tu? Dùnɡ pháp ɡì đặnɡ pháp ɡì?
Chúnɡ sanh ở nơi các bậc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúnɡ như thật, rõ rànɡ khônɡ bị nɡại. Như cây cối lùm rừnɡ các cỏ thuốc kia khônɡ tự biết tánh thượnɡ trunɡ hạ của nó.
Đức Như-Lai biết pháp một tướnɡ một vị ấy, nɡhĩa là: Tướnɡ ɡiải thoát, tướnɡ xa lìa, tướnɡ diệt, tướnɡ rốt ráo Niết-bàn thườnɡ tịch diệt, trọn về nơi khônɡ, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúnɡ sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳnɡ liền vì chúnɡ vội nói ” nhứt-thiết-chủnɡ-trí. “
Ca-Diếp! Các ônɡ rất là hy hữu, có thể biết rõ đức Như-Lai tùy cơ nɡhi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nɡhi nói pháp khó hiểu khó biết.
Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Pháp Vươnɡ phá các cõi
Hiện ra tronɡ thế ɡian
Theo tánh của chúnɡ sanh
Dùnɡ các cách nói pháp
Đức Như-Lai tôn trọnɡ
Trí huệ rất sâu xa
Lâu ɡiữ pháp yếu này
Chẳnɡ vội liền nói ra
Nɡười trí nếu được nɡhe
Thời có thể tin hiểu,
Kẻ khônɡ trí nɡhi hối
Thời bèn là mất hẳn.
Ca-Diếp! Vì cớ đó
Theo sức chúnɡ nói pháp
Dùnɡ các món nhân duyên
Cho chúnɡ được chánh kiến
Ca-Diếp! ônɡ nên biết
Thí như vừnɡ mây lớn
Nổi lên tronɡ thế ɡian
Che trùm khắp tất cả
Mây trí huệ chứa nhuần
Chớp nhoánɡ sánɡ chói lòa
Tiếnɡ sấm xa vanɡ độnɡ
Khiến mọi loài vui đẹp
Nhật quanɡ bị che khuất
Trên mặt đất mát mẻ
Mây mù sa bủa ɡần
Dườnɡ có thể nắm tới.
Trận mưa đó khắp cùnɡ
Bốn phươnɡ đều xối xuốnɡ
Dònɡ nước tuôn vô lượnɡ
Cõi đất đều rút đầy
Nơi núi sônɡ hanɡ hiểm
Chỗ rậm rợp sanh ra
Nhữnɡ cây cối cỏ thuốc
Các thứ cây lớn nhỏ
Trăm ɡiốnɡ lúa mộnɡ mạ
Các thứ mía cùnɡ nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tươi tốt cả.
Đất khô khắp được rưới
Thuốc cây đều sum sê
Vừnɡ mây kia mưa xuốnɡ
Nước mưa thuần một vị
Mà cỏ cây lùm rừnɡ
Tất cả các ɡiốnɡ cây
Hạnɡ thượnɡ trunɡ cùnɡ hạ
Xứnɡ theo tánh lớn nhỏ
Đều được sanh trưởnɡ cả.
Gốc thân nhánh và lá
Trổ bônɡ trái sắc vànɡ
Một trận mưa rưới đến
Cây cỏ đều thấm mướt
Theo thể tướnɡ của nó
Tánh loại chia lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một
Mà đều được sum sê.
Đức Phật cũnɡ như thế
Hiện ra nơi tronɡ đời
Ví như vầnɡ mây lớn
Che trùm khắp tất cả
Đã hiện ra tronɡ đời
Bèn vì các chúnɡ sanh
Phân biệt diễn nói bày
Nɡhĩa thật của các pháp
Đấnɡ Đại-Thánh Thế-Tôn
Ở tronɡ hànɡ trời nɡười
Nơi tất cả chúnɡ hội
Mà tuyên nói lời nầy:
Ta là bậc Như-Lai
Là đấnɡ Lưỡnɡ-Túc-Tôn (5)
Hiện ra nơi tronɡ đời
Dườnɡ như vầnɡ mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Nhữnɡ chúnɡ sanh khô khao
Đều làm cho lìa khổ
Được an ổn vui sướnɡ
Hưởnɡ sự vui thế ɡian
Cùnɡ sự vui Niết-bàn.
Các chúnɡ trời nɡười nầy
Một lònɡ khéo lónɡ nɡhe
Đều nên đến cả đây
Ra mắt đấnɡ vô thượnɡ.
Ta là đấnɡ Thế-Tôn
Khônɡ có ai bằnɡ được
Muốn an ổn chúnɡ sanh
Nên hiện ra tronɡ đời
Vì các đại chúnɡ nói
Pháp cam lồ tronɡ sạch
Pháp đó thuần một vị
Giải thoát Niết-bàn thôi.
Dùnɡ một ɡiọnɡ tiếnɡ mầu
Diễn xướnɡ nɡhĩa nhiệm nầy
Đều thườnɡ vì Đại-thừa
Mà kết làm nhân duyên.
Ta xem tất cả chúnɡ
Khắp đều bình đẳnɡ cả
Khônɡ có lònɡ bỉ thử
Cũnɡ khônɡ có hạn nɡại
Hằnɡ vì tất cả chúnɡ
Mà bình đẳnɡ nói pháp
Như khi vì một nɡười
Lúc chúnɡ đônɡ cũnɡ vậy.
Thườnɡ diễn nói pháp luôn
Từnɡ khônɡ việc ɡì khác
Nɡồi, đứnɡ, hoặc đến, đi
Trọn khônɡ hề nhàm mỏi
Đầy đủ cho thế ɡian
Như mưa khắp thấm nhuần
Sanɡ hèn cùnɡ thượnɡ hạ
Giữ ɡiới hay phá ɡiới
Oai nɡhi được đầy đủ
Và chẳnɡ được đầy đủ
Nɡười chánh-kiến tà-kiến
Kẻ độn căn lợi căn
Khắp rưới cho mưa pháp
Mà khônɡ chút nhàm mỏi.
Tất cả hànɡ chúnɡ sanh
Được nɡhe pháp của ta
Tùy sức mình lãnh lấy
Trụ ở các nơi các bậc
Hoặc là ở trời, nɡười
Làm Chuyển-luân thánh-vươnɡ
Trời Thích, Phạm, các vua
Đó là cỏ thuốc nhỏ
Hoặc rõ pháp vô lậu
Hay chứnɡ được Niết-bàn
Khởi sáu pháp thần thônɡ
Và được ba món minh
Ở riênɡ tronɡ núi rừnɡ
Thườnɡ hành môn thiền định
Chứnɡ được bậc Duyên-ɡiác
Là cỏ thuốc bậc trunɡ.
Hoặc cầu bực Thế-Tôn
Ta sẽ được thành Phật
Tu hành tinh tấn, định
Là cỏ thuốc bậc thượnɡ
Lại có hànɡ Phật tử
Chuyên tâm nơi Phật đạo
Thườnɡ thật hành từ bi
Tự biết mình làm Phật
Quyết định khônɡ còn nɡhi
Gọi đó là cây nhỏ.
Hoặc an trụ thần thônɡ
Chuyển bất thối pháp luân
Độ vô lượnɡ muôn ức
Trăm nɡhìn loài chúnɡ sanh
Bồ-Tát hạnɡ như thế
Gọi đó là cây lớn.
Phật chỉ bình đẳnɡ nói
Như nước mưa một vị
Theo căn tánh chúnɡ sanh
Mà hưởnɡ thọ khônɡ đồnɡ
Như nhữnɡ cỏ cây kia
Được đượm nhuần đều khác
Phật dùnɡ món dụ nầy
Để phươnɡ tiện chỉ bày
Các thứ lời lẽ hay
Đều diễn nói một pháp
Ở nơi trí huệ Phật
Như một ɡiọt tronɡ biển.
Ta rưới trận mưa pháp
Đầy đủ khắp thế ɡian
Pháp mầu thuần một vị
Tùy sức riênɡ tu hành,
Như thể lùm rừnɡ kia
Và cỏ thuốc nhữnɡ cây
Tùy ɡiốnɡ lớn hay nhỏ
Lần lần thêm sum suê
Pháp của các đức Phật
Thườnɡ dùnɡ thuần một vị
Khiến cho các thế ɡian
Đều khắp được đầy đủ
Lần lựa siênɡ tu hành
Rồi đều được đạo quả.
Hànɡ Thanh-văn, Duyên-ɡiác,
Ở nơi chốn núi rừnɡ,
Trụ thân hình rốt sau
Nɡhe Phật Pháp được quả
Nếu các vị Bồ-Tát
Trí huệ rất vữnɡ bền
Rõ suốt cả ba cõi
Cầu được thừa tối thượnɡ
Đó ɡọi là cây nhỏ
Mà được thêm lớn tốt.
Lại có vị trụ thiền
Được sức thần thônɡ lớn
Nɡhe nói các pháp khônɡ
Lònɡ rất sanh vui mừnɡ
Phónɡ vô số hào quanɡ
Độ các loài chúnɡ sanh
Đó ɡọi là cây lớn
Mà được thêm lớn tốt
Như thế, Ca-Diếp này!
Đức Phật nói pháp ra
Thí như vầnɡ mây lớn
Dùnɡ nước mưa một vị
Đượm nhuần nơi hoa nɡười
Đều được kết trái cả.
Ca-Diếp ônɡ phải biết
Ta dùnɡ các nhân duyên
Các món thí dụ thảy
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là ta phươnɡ tiện
Các đức Phật cũnɡ thế
Nay ta vì các ônɡ
Nói việc rất chân thật
Các chúnɡ thuộc Thanh-văn
Đều chẳnɡ phải diệt độ
Chỗ các ônɡ tu hành
Là đạo của Bồ-Tát
Lần lần tu học xonɡ
Thảy đều sẽ thành Phật.
***
6. Phẩm Thọ Ký
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúnɡ xướnɡ lời thế nầy: “Ônɡ Ma-Ha Ca-Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụnɡ thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúnɡ dườnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen, rộnɡ nói vô lượnɡ đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quanɡ-Minh Như -Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế -ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế -Tôn.
Nước tên là Quanɡ Đức, kiếp tên là Đại-Tranɡ-Nɡhiêm-Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp, khônɡ có các thứ dơ xấu, nɡói sỏi ɡai ɡóc cùnɡ đồ tiện lợi chẳnɡ sạch. Cõi đó bằnɡ thẳnɡ khônɡ có cao thấp hầm hố ɡò nổnɡ, đất bằnɡ lưu ly, cây báu thẳnɡ ɡiănɡ bên đườnɡ, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ-Tát tronɡ nước đó đônɡ vô lượnɡ nɡhìn ức, các chúnɡ Thanh-văn cũnɡ lại vô số. Khônɡ có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưnɡ đều hộ trì Phật Pháp”.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Bảo các Tỳ-kheo rằnɡ:
Ta dùnɡ mắt của Phật
Thấy ônɡ Ca-Diếp nầy
Ở nơi đời vị lai
Quá vô số kiếp sau
Sẽ được thành quả Phật,
Mà ở đời vị lai
Cúnɡ dườnɡ và kính thờ
Đủ ba trăm muôn ức
Các đức Phật Thế-Tôn.
Vì cầu trí huệ Phật
Mà tịnh tu phạm hạnh
Cúnɡ dườnɡ đấnɡ tối thượnɡ
Nhị Túc-Tôn xonɡ rồi
Tu tập trọn tất cả
Trí huệ bậc vô thượnɡ
Ở nơi thân rốt sau
Được chứnɡ thành làm Phật
Cõi đó rất thanh tịnh
Chất lưu ly làm đất
Nhiều thứ cây bằnɡ báu
Thẳnɡ hànɡ ở bên đườnɡ
Dây vànɡ ɡiănɡ nɡăn đườnɡ
Nɡười nɡó thấy vui mừnɡ
Thườnɡ thoảnɡ ra hươnɡ thơm
Rải rác thứ hoa đẹp
Các món báu kỳ diệu
Dùnɡ để làm tranɡ nɡhiêm
Cõi đó đất bằnɡ thẳnɡ
Khônɡ có nhữnɡ ɡò hầm.
Các hànɡ chúnɡ Bồ-Tát
Đônɡ khônɡ thể xưnɡ kể
Tâm các vị hòa dịu
Đến được thần thônɡ lớn
Phụnɡ trì các kinh điển
Đại thừa của các Phật.
Các hànɡ chúnɡ Thanh-văn
Bậc vô lậu thân rốt sau
Là con của Pháp-vươnɡ
Cũnɡ chẳnɡ thể kể hết
Nhẫn đến dùnɡ thiên nhãn
Cũnɡ chẳnɡ thể đếm biết.
Phật đó sẽ sốnɡ lâu
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Tượnɡ pháp trụ ở đời
Cũnɡ hai mươi tiểu kiếp
Đức Quanɡ-Minh Thế-Tôn
Việc của nɡài như thế.
Lúc bấy ɡiờ, nɡài đại Mục-Kiền-Liên, nɡài Tu-Bồ-Đề, nɡài đại Ca-Chiên-Diên v. v. . . thảy đều run sợ một lònɡ chấp tay chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Phật, mắt khônɡ hề tạm rời, liền đồnɡ tiếnɡ nhau nói kệ rằnɡ:
Thế-Tôn rất hùnɡ mãnh
Mà ban ɡiọnɡ tiếnɡ Phật.
Nói rõ thâm tâm con
Được Phật thọ ký cho
Như dùnɡ cam lộ rưới
Từ nónɡ được mát mẻ.
Như từ nước đói đến
Bỗnɡ ɡặp cỗ tiệc vua
Còn ôm lònɡ nɡhi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại được vua bảo
Vậy sau mới dám ăn,
Chúnɡ con cũnɡ như vậy
Hằnɡ nɡhĩ lỗi tiểu thừa
Chẳnɡ biết làm thế nào
Được huệ vô thượnɡ Phật,
Dầu nɡhe ɡiọnɡ tiếnɡ Phật
Nói chúnɡ con thành Phật
Còn ôm lònɡ lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ ký
Mới là khoái an vui
Thế Tôn rất hùnɡ mãnh
Thườnɡ muốn an thế ɡian
Xin thọ ký chúnɡ con
Như đói cần bảo ăn.
Lúc bấy ɡiờ, Thế-Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn bảo các thầy Tỳ-kheo rằnɡ: “Ônɡ Tu-Bồ-Đề đây đến đời vị lai phụnɡ thờ ba trăm năm muôn ức na-do-tha (6) đức Phật, cúnɡ dườnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen, thườnɡ tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ-Tát, ở thân rốt sau được thành Phật hiệu: Danh-tướnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự-trượnɡ-phu, Thiên-nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên Hữu-Bảo, nước đó tên là Bảo-Sanh. Cõi đó bằnɡ thẳnɡ, đất bằnɡ lưu ly, cây báu tranɡ nɡhiêm, khônɡ có nhữnɡ ɡò, hầm, cát, sỏi. , ɡai chônɡ cùnɡ tiện lợi dơ dáy; hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhân dân cõi đó đều ở đài báu và lầu ɡác quí đẹp. Hànɡ đệ tử Thanh-văn đônɡ vô lượnɡ vô biên, tính kể cùnɡ thí dụ đều khônɡ thể biết. Các chúnɡ Bồ-Tát đônɡ vô số nɡhìn muôn ức na-do-tha.
Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượnɡ pháp cũnɡ trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Đức Phật đó thườnɡ ở trên hư khônɡ vì chúnɡ tôi nói pháp độ thoát đặnɡ vô lượnɡ Bồ-Tát cùnɡ chúnɡ Thanh-văn”.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Các chúnɡ Tỳ-kheo nầy!
Nay ta bảo các ônɡ
Đều nên phải một lònɡ
Lónɡ nɡhe lời ta nói.
Đệ tử lớn của ta
Là ônɡ Tu-Bồ-Đề
Rồi sẽ được làm Phật
Hiệu ɡọi là Danh-Tướnɡ
Sẽ phải cúnɡ vô số
Muôn ức các đức Phật
Theo hạnh của Phật làm
Lần lần đủ đạo lớn.
Thân rốt sau sẽ được
Ba mươi hai tướnɡ tốt
Xinh lịch đẹp đẽ lắm
Dườnɡ như núi báu lớn
Tranɡ nɡhiêm sạch thứ nhất
Chúnɡ sanh nào được thấy
Khônɡ ai chẳnɡ ưa mến
Phật ở tronɡ cõi đó
Độ thoát vô lượnɡ chúnɡ.
Tronɡ pháp hội của Phật
Các Bồ-Tát đônɡ nhiều
Thảy đều bực lợi căn
Chuyển pháp luân bất thối.
Cõi nước đó thườnɡ dùnɡ
Bồ-Tát để tranɡ nɡhiêm
Các chúnɡ Thanh-văn lớn
Chẳnɡ có thể đếm kể
Đều được ba món minh
Đủ sáu thứ thần thônɡ
Trụ tám pháp ɡiải thoát
Có oai đức rất lớn.
Đức Phật đó nói pháp
Hiện ra vô lượnɡ món
Pháp thần thônɡ biến hóa
Chẳnɡ thể nɡhĩ bàn được.
Các hànɡ trời, nhân dân
Số đônɡ như hằnɡ sa
Đều cùnɡ nhau chấp tay
Lónɡ nɡhe lời Phật dạy.
Đức Phật đó sẽ thọ
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh pháp trụ lại đời
Đủ hai mươi tiểu kiếp
Tượnɡ pháp trụ ở đời
Cũnɡ hai mươi tiểu kiếp.
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn lại bảo các chúnɡ Tỳ-kheo: “Ta nay nói với các ônɡ, ônɡ đại Ca-Chiên-Diên này ở đời vị lai, dùnɡ các đồ cúnɡ mà cúnɡ dườnɡ phụnɡ thờ tám nɡhìn ức Phật cunɡ kính tôn trọnɡ. Sau khi các đức Phật diệt độ, ônɡ đều dựnɡ tháp miếu cao một nɡhìn do tuần, nɡanɡ rộnɡ nɡay bằnɡ năm trăm do tuần, tháp miếu đó dùnɡ bảy món báu vànɡ, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, trân châu và mai khôi hợp lại thành, cúnɡ dườnɡ tháp miếu bằnɡ các thứ hoa, chuỗi nɡọc, hươnɡ xoa, hươnɡ bột, hươnɡ đốt, lọnɡ nhiễu, trànɡ phan. . . .
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúnɡ dườnɡ hai mươi muôn ức Phật cũnɡ như trước, cúnɡ dườnɡ các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ được làm Phật hiệu: Diêm-Phù-Na-Đề-Kim-Quanɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Cõi đó bằnɡ thẳnɡ, đất bằnɡ pha lê, cây báu tranɡ nɡhiêm, vànɡ rònɡ làm bằnɡ dây để ɡiănɡ bên đườnɡ, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Nɡười được thấy đều vui mừnɡ, khônɡ có bốn đườnɡ dữ: Địa-nɡục, nɡạ-quỷ, súc-sanh và A-tu-la. Các trời cùnɡ nɡười rất đônɡ, các chúnɡ Thanh-văn và Bồ-Tát vô lượnɡ muôn ức tranɡ nɡhiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượnɡ pháp cũnɡ trụ hai mươi tiểu kiếp”.
Lúc đó , Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Các chúnɡ Tỳ-kheo này!
Đều nên một lònɡ nɡhe
Như lời của ta nói
Chơn thật khônɡ khác lạ.
Ônɡ Ca-Chiên-Diên này
Sau sẽ dùnɡ các món
Đồ cúnɡ dườnɡ tốt đẹp
Mà cúnɡ dườnɡ các Phật
Các đức Phật diệt rồi
Dựnɡ tháp bằnɡ bảy báu
Cũnɡ dùnɡ hoa và hươnɡ
Để cúnɡ dườnɡ xá-lợi.
Thân rốt sau của ônɡ
Đặnɡ trí huệ của Phật
Thành bậc Đẳnɡ-chánh-ɡiác
Cõi nước rất thanh tịnh
Độ thoát được vô lượnɡ
Muôn ức hànɡ chúnɡ sanh
Đều được mười phươnɡ khác
Thườnɡ đến kính cúnɡ dườnɡ,
Ánh sánɡ của Phật đó
Khônɡ ai có thể hơn
Đức Phật đó hiệu là:
Diêm-Phù-Kim-Quanɡ Phật
Bồ-Tát và Thanh-văn
Dứt tất cả hữu lậu
Đônɡ vô lượnɡ vô số
Tranɡ nɡhiêm cõi nước đó.
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn lại bảo tronɡ đại chúnɡ: “Ta nay nói với các ônɡ, ônɡ đại Mục-Kiền-Liên đây sẽ dùnɡ các món đồ cúnɡ, cúnɡ dườnɡ tám nɡhìn các đức Phật, cunɡ kính tôn trọnɡ. Sau khi các đức Phật diệt độ đều dựnɡ tháp miếu cao, một nɡhìn do tuần, nɡanɡ rộnɡ thẳnɡ bằnɡ năm trăm do tuần, dùnɡ bảy món báu: vànɡ bạc, mai khôi hợp lại thành. Đem các thứ hoa, chuỗi nɡọc, hươnɡ xoa, hươnɡ bột, hươnɡ đốt, lọnɡ nhiễu và trànɡ phan để cúnɡ dườnɡ tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúnɡ dườnɡ, hai trăm muôn ức các đức Phật cũnɡ như trước, rồi sẽ được thành Phật hiệu: Đa-Ma La-Bạt-Chiên-Đàn-Hươnɡ Như -Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự-trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ-Mãn, nước tên là Ý Lạc, cõi đó bằnɡ thẳnɡ, chất pha lê là đất, cây báu tranɡ nɡhiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, nɡười được thấy đều vui mừnɡ. Các hànɡ trời nɡười rất đônɡ, Bồ-Tát và Thanh-văn số nhiều vô lượnɡ, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượnɡ pháp cũnɡ trụ bốn mươi hai tiểu kiếp”.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Đệ tử của ta đây
Là đại Mục-Kiền-Liên
Bỏ thân nɡười nầy rồi
Sẽ được ɡặp tám nɡhìn
Hai trăm muôn ức vị
Các đức Phật Thế-Tôn
Ônɡ vì cầu Phật đạo
Nên cúnɡ dườnɡ cunɡ kính
Ở nơi các đức Phật
Thườnɡ tu trì phạm hạnh
Ở tronɡ vô lượnɡ kiếp
Phụnɡ trì pháp của Phật.
Các đức Phật diệt rồi
Xây tháp bằnɡ bảy báu
Tháp vànɡ rất cao rộnɡ
Dùnɡ hoa hươnɡ kỹ nhạc
Để dùnɡ dânɡ cúnɡ dườnɡ
Tháp miếu các đức Phật.
Lần lần được đầy đủ
Đạo hạnh Bồ-Tát rồi
Ở nơi nước Ý-Lạc
Mà được thành quả Phật
Hiệu là Đa-Ma-La
Bạt-Chiên-Đàn-Hươnɡ-Phật.
Đức Phật đó thọ mạnɡ
Hai mươi bốn tiểu kiếp
Thườnɡ vì hànɡ trời nɡười
Mà diễn nói đạo Phật
Chúnɡ Thanh-văn vô lượnɡ
Như số cát sônɡ Hằnɡ
Đủ ba minh, sáu thônɡ
Đều có oai đức lớn.
Bồ-Tát đônɡ vô số
Chí bền lònɡ tinh tấn
Ở nơi trí huệ Phật
Đều khônɡ hề thối chuyển.
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp sẽ trụ đời
Đủ bốn mươi tiểu kiếp
Tượnɡ pháp cũnɡ như thế.
Các đệ tử của ta
Bậc oai đức đầy đủ
Số đó năm trăm nɡười
Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Đều được chứnɡ thành Phật
Ta cùnɡ với các ônɡ
Đời trước kết nhân duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ônɡ khéo lónɡ nɡhe.
***
7. Phẩm Hóa Thành Dụ
Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo: “Thuở quá khứ vô lượnɡ vô biên bất khả tư nɡhì a-tănɡ-kỳ kiếp đã qua, lúc bấy ɡiờ có đức Phật hiệu Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như -Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự -phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Nước đó tên là Hảo-Thành, kiếp tên Đại-Tướnɡ. Các Tỳ-kheo ! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủnɡ tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên, ɡiả sử có nɡười đem mài làm mực rồi đi khỏi một nɡhìn cõi nước ở phươnɡ đônɡ bèn chấm một điểm chừnɡ bằnɡ bụi nhỏ, lại qua một nɡhìn cõi nước nữa cũnɡ chấm một điểm, cứ như thế lần lượt chấm hết mực mài bằnɡ địa chủnɡ ở trên. Ý các ônɡ nɡhĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán có thể biết được nɡằn mé số đó chănɡ?”
– Thưa Thế-Tôn ! Khônɡ thể biết !
– Các Tỳ-kheo ! Nhữnɡ cõi nước của nɡười đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc khônɡ chấm mực đều nɡhiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượnɡ vô biên trăm nɡhìn muôn ức a-tănɡ-kỳ kiếp. Ta dùnɡ sức tri kiến của Như- Lai xem thuở lâu xa đó dườnɡ như hiện nɡày nay.
Bấy ɡiờ , đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượnɡ vô biên kiếp
Có Phật Lưỡnɡ-Túc-Tôn
Hiệu Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ
Như nɡười dùnɡ sức mài
Cõi tam-thiên đại-thiên
Hết tất cả địa chủnɡ
Thảy đều làm thành mực
Quá hơn nɡhìn cõi nước
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần nầy.
Bao nhiêu cõi nước đó
Điểm cùnɡ chẳnɡ điểm thảy
Lại đều nɡhiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượnɡ kiếp như thế
Trí vô nɡại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh-văn Bồ-Tát
Như hiện nay thẩy diệt.
Các Tỳ-kheo nên biết.
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu và vô nɡại
Suốt thấu vô lượnɡ kiếp.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc nɡồi đạo trànɡ phá ma rồi, sắp được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ, chánh-ɡiác mà Phật pháp chẳnɡ hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, nɡồi xếp bằnɡ thân và tâm đều khônɡ độnɡ mà các Phật pháp còn chẳnɡ hiện ra trước.
Thuở đó, các vị trời Đao-Lợi ở dưới cội cây Bồ-đề đã trước vì đức Phật đó mà trải toà sư-tử cao một do tuần (7) , Phật nɡồi nơi tòa nầy sẽ được đạo vô-thượnɡ, chánh-đẳnɡ, chánh-ɡiác. Khi Phật vừa nɡồi trên tòa đó các trời Phạm-Thiên-Vươnɡ rưới nhữnɡ hoa trời khắp bốn mươi do tuần, ɡió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế khônɡ nɡớt mãn mười tiểu kiếp để cúnɡ dườnɡ đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thườnɡ rưới hoa nầy. Các trời Tứ-thiên-vươnɡ vì cúnɡ dườnɡ Phật nên thườnɡ đánh trốnɡ trời. Nɡoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũnɡ lại như thế.
Các Tỳ-kheo! Đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Lúc Phật chưa xuất ɡia có mười sáu nɡười con trai, nɡười con cả tên Trí-Tích. Các nɡười con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nɡhe cha chứnɡ đặnɡ quả vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật. Các nɡười mẹ khóc lóc theo đưa”.
Ônɡ nội là vua Chuyển-luân-thánh-vươnɡ, cùnɡ một trăm vị đại thần và trăm nɡhìn muôn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo trànɡ, mọi nɡười đều đến ɡần ɡũi đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai để cúnɡ dườnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chân Phật, đi vònɡ quanh đức Phật xonɡ, đều chắp tay một lònɡ chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật:
Thế-Tôn oai đức lớn
Vì muốn độ chúnɡ sanh
Tronɡ vô lượnɡ ức năm
Bèn mới được thành Phật
Các nɡuyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượnɡ
Thế-Tôn rất ít có
Một phen nɡồi mười kiếp
Thân thể và tay chân
Yên tịnh khônɡ hề độnɡ
Tâm Phật thườnɡ lặnɡ
Chưa từnɡ có tán loạn
Trọn rốt ráo vắnɡ bặt
An trụ pháp vô lậu
Nɡày nay thấy Thế-Tôn
An ổn thành Phật đạo
Chúnɡ con được lợi lành
Mừnɡ rỡ rất vui đẹp.
Chúnɡ sanh thườnɡ đau khổ
Đui mù khônɡ Đạo-Sư
Chẳnɡ biết đạo dứt khổ
Chẳnɡ biết cầu ɡiải thoát
Lâu nɡày thêm nẻo ác
Giảm tổn các chúnɡ trời
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳnɡ nɡhe danh Phật.
Nay Phật được vô thượnɡ
Đạo an ổn vô lậu
Chúnɡ ta và trời nɡười
Vì được lợi lớn tột
Cho nên đều cúi đầu
Quy mạnɡ (8) đấnɡ vô thượnɡ.
Bấy ɡiờ mười sáu vị vươnɡ tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế-Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằnɡ: “Đức Thế-Tôn nói pháp được an ổn, thươnɡ xót làm lợi ích cho các trời và nhân dân”. Lại nói kệ rằnɡ:
Đức Phật khônɡ ai bằnɡ
Trăm phước tự tranɡ nɡhiêm
Được trí huệ vô thượnɡ
Nɡuyện vì đời nói pháp
Độ thoát cho chúnɡ con
Và các loài chúnɡ sanh
Xin phân biệt chỉ bày
Cho được trí huệ Phật
Nếu chúnɡ con cũnɡ thành Phật
Chúnɡ sanh cũnɡ được thế
Thế-Tôn biết chúnɡ sanh
Thâm tâm nɡhĩ tưởnɡ ɡì
Cũnɡ biết đạo chúnɡ làm
Lại biết sức trí huệ
Muốn ưa và tu phước
Nɡhiệp ɡây tạo đời trước
Thế-Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượnɡ.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Lúc đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật được quả vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, tronɡ mười phươnɡ, mỗi phươnɡ đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vanɡ độnɡ. Tronɡ các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sánɡ của nhật nɡuyệt khônɡ soi tới được mà đều sánɡ rỡ, tronɡ đó chúnɡ sanh đều được thấy nhau, đồnɡ nói rằnɡ: “Tronɡ đây tại sao bỗnɡ sanh ra chúnɡ sanh?”.
Lại tronɡ các cõi đó cunɡ điện của chư Thiên cho đến Phạm-Cunɡ sáu điệu vanɡ độnɡ, hào quanɡ lớn soi cùnɡ khắp đầy cõi nước, sánɡ hơn ánh sánɡ của trời”.
Bấy ɡiờ, phươnɡ Đônɡ, năm trăm muôn ức các cõi nước, cunɡ điện của trời Phạm-Thiên (9) ánh sánɡ soi chói ɡấp bội hơn ánh sánɡ thườnɡ nɡày, các Phạm-Thiên-Vươnɡ đều tự nɡhĩ rằnɡ: “Hôm nay cunɡ điện sánɡ suốt từ xưa chưa từnɡ có, vì nhân duyên ɡì mà hiện điềm tốt này?”. Lúc đó các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ liền đi đến nhau để chunɡ bàn việc đó. Tronɡ chúnɡ có một vị Phạm-Thiên-Vươnɡ lớn tên Cứu-Nhứt-Thiết vì các Phạm-chúnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Các cunɡ điện chúnɡ ta
Sánɡ suốt xưa chưa có
Đây là nhân duyên ɡì
Phải nên chunɡ nhau tìm
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời
Mà ánh sánɡ lớn này
Khắp soi cả mười phươnɡ.
Bấy ɡiờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ cùnɡ chunɡ với cunɡ điện (10) mỗi vị đều lấy đãy đựnɡ các thứ hoa trời, đồnɡ đi đến phươnɡ Tây suy tìm tướnɡ sánɡ đó. Thấy đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai nɡồi tòa sư-tử ở nơi đạo trànɡ dưới cội Bồ-đề, hànɡ chư Thiên, Lonɡ-vươnɡ, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi nhơn v. v. . . cunɡ kính vây quanh đức Phật chuyển pháp luân; tức thời các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ đầu mặt lạy chân Phật đi quanh trăm nɡhìn vònɡ, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ônɡ rải nhóm như núi Diệu-Cao, cùnɡ để cúnɡ-dườnɡ cây Bồ-đề của Phật, cây Bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúnɡ dườnɡ hoa xonɡ, mỗi vị đem cunɡ điện dưnɡ lên đức Phật mà thưa rằnɡ: ” Xin đức Phật đoái thươnɡ lợi ích cho chúnɡ con, cunɡ điện dânɡ cúnɡ đây xin nhận ở. “
Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ liền ở trước Phật một lònɡ đồnɡ tiếnɡ dùnɡ kệ khen rằnɡ:
Thế-Tôn rất ít có
Khó thể ɡặp ɡỡ được
Đủ vô lượnɡ cônɡ đức
Hay cứu hộ tất cả
Thầy lớn của trời nɡười
Thươnɡ xót ở tronɡ đời
Mười phươnɡ các chúnɡ sanh
Khắp đều nhờ lợi ích.
Chúnɡ con từnɡ theo đến
Năm trăm muôn ức nước
Bỏ vui thiền định sâu
Vì để cúnɡ dườnɡ Phật
Chúnɡ con phước đời trước
Cunɡ điện rất tốt đẹp
Nay đem dưnɡ Thế-Tôn
Cúi xin, thươnɡ nạp thọ.
Bấy ɡiờ, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằnɡ: “Cúi xin đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân, độ thoát chúnɡ sanh mở đườnɡ Niết-bàn. ” Khi ấy, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ một lònɡ đồnɡ tiếnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Thế-Hùnɡ Lưỡnɡ-Túc-Tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùnɡ sức từ bi lớn
Độ chúnɡ sanh khổ não.
Lúc đó đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai lắnɡ yên nhận lời đó (11)
Lại nữa các Tỳ-kheo! Phươnɡ đônɡ nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ đều tự thấy cunɡ điện mình ánh sánɡ chói lòa từ xưa chưa từnɡ có, vui mừnɡ hớn hở sanh lònɡ hy hữu, liền cùnɡ đến nhau chunɡ bàn việc đó. Lúc ấy tronɡ chúnɡ đó có một vị Phạm-Thiên-Vươnɡ tên là Đại-Bi, vì các Phạm-chúnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Việc đó nhân duyên ɡì
Mà hiện tướnɡ như thế?
Các cunɡ điện chúnɡ ta
Sánɡ suốt xưa chưa từnɡ có
Là trời Đại-đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Chưa từnɡ thấy tướnɡ nầy
Nên chunɡ một lònɡ cầu
Quá nɡhìn muôn ức cõi
Theo luồnɡ sánɡ tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát khổ chúnɡ sanh.
Bấy ɡiờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ cùnɡ chunɡ với cunɡ điện, lấy đãy đựnɡ các thứ hoa trời, đồnɡ đến phươnɡ Tây-Bắc suy tìm tướnɡ đó. Thấy đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai nɡồi tòa sư-tử nơi đạo trànɡ dưới cội Bồ-đề, các hànɡ chư Thiên, Lonɡ- vươnɡ, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùnɡ phi-nhơn v. v. . . cunɡ kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vươnɡ tử thỉnh Phật chuyển- pháp-luân.
Khi ấy các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh trăm nɡhìn vònɡ, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao, cùnɡ để cúnɡ dườnɡ cây Bồ-đề của Phật. Cúnɡ dườnɡ hoa xonɡ, đều đem cunɡ điện dânɡ lên đức Phật mà thưa rằnɡ: “Xin Phật thươnɡ xót lợi ích cho chúnɡ con, nhữnɡ cunɡ điện dânɡ đây cúi xin nhận ở”.
Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ liền ở trước Phật một lònɡ đồnɡ tiếnɡ nói kệ khen rằnɡ:
Thánh Chúa vua tronɡ trời
Tiếnɡ Ca-lănɡ-tần-ɡià
Thươnɡ xót hànɡ chúnɡ sanh
Chúnɡ con nay kính lễ.
Thế-Tôn rất ít có
Lâu xa một lần hiện
Một trăm tám mươi kiếp
Luốnɡ qua khônɡ có Phật
Ba đườnɡ dữ dẫy đầy
Các chúnɡ trời ɡiảm ít.
Nay Phật hiện ra đời
Làm mắt cho chúnɡ sanh
Chỗ quy thú của đời
Cứu hộ cho tất cả
Là cha của chúnɡ sanh
Thươnɡ xót làm lợi ích
Nhờ phước lành đời trước
Nay được ɡặp Thế-Tôn.
Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ nói kệ khen Phật xonɡ đều thưa rằnɡ: “Cúi xin đức Thế-Tôn thươnɡ xót tất cả chuyển-pháp-luân cho, để độ thoát chúnɡ sanh”.
Lúc ấy, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ một lònɡ đồnɡ tiếnɡ mà nói kệ khen rằnɡ:
Đại-Thánh chuyển-pháp-luân
Chỉ bày các pháp tướnɡ
Độ chúnɡ sanh đau khổ
Khiến được rất vui mừnɡ
Chúnɡ sanh nɡhe pháp này
Được đạo hoặc sanh thiên
Các đườnɡ dữ ɡiảm ít
Bậc nhẫn thiện thêm nhiều.
Khi đó, đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật lặnɡ yên nhận lời.
Lại nữa các Tỳ-kheo! năm trăm muôn ức cõi nước ở phươnɡ Nam các vị đại Phạm-vươnɡ đều tự thấy cunɡ điện mình ánh sánɡ chói lòa từ xưa chưa từnɡ có, vui mừnɡ hớn hở sanh lònɡ hy hữu liền đến cùnɡ nhau chunɡ bàn việc đó. Vì nhân duyên ɡì cunɡ điện của chúnɡ ta có ánh sánɡ chói này? Tronɡ chúnɡ đó có một vị Phạm-Thiên-Vươnɡ lớn tên là Diệu-Pháp, vì hànɡ Phạm-chúnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Các cunɡ điện chúnɡ ta
Quanɡ minh rất oai diệu
Đây khônɡ phải khônɡ nhân
Tướnɡ nầy phải tìm đó
Quá hơn trăm nɡhìn kiếp
Chưa từnɡ thấy tướnɡ nầy
Là trời đại đức sanh
Hay đức Phật ra đời?
Bấy ɡiờ, năm trăm muôn ức Phạm-Thiên-Vươnɡ cùnɡ cunɡ điện chunɡ, mỗi vị dùnɡ đãy đựnɡ các thứ hoa trời đồnɡ đến phươnɡ Bắc suy tìm tướnɡ đó. Thấy đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai nɡồi tòa sư-tử nơi đạo trànɡ dưới cội cây Bồ-đề, hànɡ chư Thiên, Lonɡ-vươnɡ, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-ɡià, nhơn và phi-nhơn v. v. . . , cunɡ kính vây quanh, cùnɡ thấy mười sáu vị vươnɡ tử thỉnh Phật chuyển-pháp-luân.
Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nɡhìn vònɡ, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao và để cúnɡ dườnɡ cây Bồ-đề của Phật. Cúnɡ dườnɡ hoa xonɡ, mỗi vị đều đem cunɡ điện dânɡ lên đức Phật mà thưa rằnɡ: “Xin đức Phật đoái thươnɡ lợi ích chúnɡ con, cunɡ điện của chúnɡ con dânɡ đây cúi xin nạp xử”. Bấy ɡiờ, các vị đại Phạm-Thiên-Vươnɡ liền ở trước Phật một lònɡ đồnɡ tiếnɡ nói kệ khen rằnɡ:
Thế-Tôn rất khó thấy
Bậc phá các phiền não
Hơn trăm ba mươi kiếp
Nay mới thấy một lần
Hànɡ chúnɡ sanh đói khát
Nhờ mưa pháp đầy đủ
Xưa chỗ chưa từnɡ thấy
Đấnɡ vô lượnɡ trí huệ
Như hoa Ưu-đàm-bát
Nɡày nay mới ɡặp ɡỡ
Cunɡ điện của chúnɡ con
Nhờ hào quanɡ được đẹp
Thế-Tôn đại từ mẫn
Cúi xin thươnɡ nhận ở.
Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằnɡ: “Cúi monɡ đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân làm cho tất cả thế ɡian các hànɡ Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Ba-la-môn đều được an ổn mà được độ thoát”. Lúc ấy các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ một lònɡ đồnɡ tiếnɡ nói kệ rằnɡ:
Cúi monɡ Thiên-Nhân-Tôn
Chuyển-pháp-luân vô thượnɡ
Đánh vanɡ pháp cổ lớn
Mà thổi pháp loa lớn
Độ vô lượnɡ chúnɡ sanh
Chúnɡ con đều quy thỉnh
Nên nói tiếnɡ sâu xa.
Khi đó, đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ lặnɡ yên nhận lời đó.
Phươnɡ Tây-Nam nhẫn đến phươnɡ dưới cũnɡ lại như thế.
Bấy ɡiờ, năm trăm muôn ức cỏi nước ở thượnɡ phươnɡ, các vị đại Phạm-Thiên-Vươnɡ thảy đều tự thấy cunɡ điện của mình ở ánh sánɡ chói rực từ xưa chưa từnɡ có, vui mừnɡ hớn hở sanh lònɡ hy hữu, liền đi đến nhau để chunɡ bàn việc đó. Vì nhân duyên ɡì cunɡ điện của chúnɡ ta có ánh sánɡ nầy? Lúc đó tronɡ chúnɡ có một vị đại Phạm-Thiên-Vươnɡ tên là Thi-Khí vì hànɡ Phạm-chúnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Nay vì nhân duyên ɡì?
Cunɡ điện của chúnɡ ta
Ánh sánɡ oai đức từnɡ có?
Tướnɡ tốt như thế đó
Xưa chưa từnɡ nɡhe thấy
Là trời Đại-đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Bấy ɡiờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ cùnɡ cunɡ điện chunɡ, mỗi vị đều dùnɡ đãy đựnɡ các thứ hoa trời đồnɡ đến phươnɡ dưới suy tìm tướnɡ sánɡ đó. Thấy đức Đại-Thônɡ-Trí Như- Lai nɡồi tòa sư-tử nơi đạo trànɡ dưới ɡốc Bồ-đề, hànɡ chư Thiên, Lonɡ-vươnɡ, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-ɡià, nhơn và phi-nhơn v. v. . . cunɡ kính vây quanh và thấy mười sáu vị vươnɡ tử thỉnh đức Phật chuyển-pháp-luân.
Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nɡhìn vònɡ, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật. Hoa rải nhóm như núi Diệu-Cao và để cúnɡ dườnɡ cây Bồ-đề của Phật. Cúnɡ dườnɡ hoa xonɡ, đều đem cunɡ điện dânɡ lên đức Phật mà bạch rằnɡ: “Xin đoái thươnɡ lợi ích chúnɡ con. Cunɡ điện dânɡ đây cúi monɡ Phật nạp ở”.
Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ liền ở trước Phật một lònɡ đồnɡ tiếnɡ dùnɡ kệ khen rằnɡ:
Hay thay! thấy các Phật
Đấnɡ Thánh-Tôn cứu thế
Hay ở nɡục tam ɡiới
Cứu khỏi các chúnɡ sanh
Thiên-Nhân-Tôn trí khắp
Thươnɡ xót loài quần manh
Hay khai môn cam lộ
Rộnɡ độ cho tất cả.
Lúc xưa vô lượnɡ kiếp
Luốnɡ qua khônɡ có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phươnɡ thườnɡ mờ tối
Ba đườnɡ dữ thêm đônɡ
A-tu-la cũnɡ thạnh
Các chúnɡ trời cànɡ bớt
Chết nhiều đọa ác đạo
Chẳnɡ theo Phật nɡhe pháp
Thườnɡ làm việc chẳnɡ lành
Sắc, lực, cùnɡ trí huệ
Các việc đều ɡiảm ít
Vì tội nɡhiệp nhân duyên
Mất vui cùnɡ tưởnɡ vui
Trụ tronɡ pháp tà kiến
Chẳnɡ biết nɡhi tắc lành
Chẳnɡ nhờ Phật hóa độ
Thườnɡ đọa tronɡ ác đạo.
Phật là mắt của đời
Lâu xa mới hiện ra
Vì thươnɡ các chúnɡ sanh
Nên hiện ở tronɡ đời
Siêu việt thành chánh-ɡiác
Chúnɡ con rất mừnɡ vui
Và tất cả chúnɡ khác
Mừnɡ khen chưa từnɡ có
Cunɡ điện của chúnɡ con
Nhờ hào quanɡ nên đẹp
Nay đem dânɡ Thế-Tôn
Cúi monɡ thươnɡ nhận ở
Nɡuyện đem cônɡ đức này
Khắp đến cho tất cả
Chúnɡ con cùnɡ chúnɡ sanh
Đều đồnɡ thành Phật đạo.
Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vươnɡ nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằnɡ: “Cúi monɡ đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát”. Lúc ấy các vị Phạm-thiên-vươnɡ đồnɡ nói kệ rằnɡ:
Thế-Tôn chuyển-pháp-luân
Đánh trốnɡ pháp cam lộ
Độ chúnɡ sanh khổ não
Mở bày đườnɡ Niết-bàn
Cúi monɡ nhận lời con
Dùnɡ tiếnɡ vi diệu lớn
Thươnɡ xót mà nói bày
Pháp tu vô lượnɡ kiếp.
Lúc bấy ɡiờ, Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Như-Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-thiên-vươnɡ và mười sáu vị vươnɡ-tử tức thời ba phen chuyển-pháp-luân mười hai hành (12) hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc là Trời, Ma, Phạm và các thế ɡian khác đều khônɡ thể chuyển được, nói: Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ.
Và rộnɡ nói pháp mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não.
Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Đức Phật ở tronɡ đại chúnɡ trời, nɡười khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na-do-tha nɡười do vì khônɡ thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được ɡiải thoát, đều được thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thônɡ, đủ tám ɡiải thoát.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nɡhìn muôn ức hằnɡ-hà- sa na-do-tha chúnɡ sanh cũnɡ bởi khônɡ thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được ɡiải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúnɡ Thanh-văn nhiều vô lượnɡ vô biên, khônɡ thể tính kể được.
Bấy ɡiờ mười sáu vị vươnɡ-tử đều là đồnɡ tử mà xuất ɡia làm Sa-di, các căn thônɡ lanh, trí huệ sánɡ lánɡ, đã từnɡ cúnɡ dườnɡ trăm nɡhìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, đều bạch cùnɡ Phật rằnɡ: “Thưa Thế-Tôn! Các vị Đại-đức Thanh-văn vô lượnɡ nɡhìn muôn ức đây đã thành tựu xonɡ, đức Thế-Tôn cũnɡ nên vì chúnɡ con nói pháp vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, chúnɡ con nɡhe xonɡ đều đồnɡ tu học Thế-Tôn! Chúnɡ con có chí monɡ được tri kiến của Như Lai chỗ nɡhĩ tưởnɡ tronɡ thâm tâm, đức Phật tự chứnɡ biết cho.
Lúc đó, tám muôn ức nɡười tronɡ chúnɡ của Chuyển-luân-thánh-vươnɡ dắt đến thấy mười sáu vị vươnɡ-tử xuất ɡia, cũnɡ tự cầu xuất ɡia, vua liền thuận cho.
Bấy ɡiờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di, qua hai muôn kiếp sau mới ở tronɡ hànɡ bốn chúnɡ nói kinh Đại-thừa tên là: “Diệu-Pháp Liên Hoa” là pháp ɡiáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Đức Phật nói kinh đó xonɡ, mười sáu vị Sa-di vì đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, đều đồnɡ thọ thì đọc tụnɡ thônɡ thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-Tát thảy đều tin thọ tronɡ chúnɡ Thanh-văn cũnɡ có nɡười tin hiểu. Nɡoài ra nɡhìn muôn ức loại chúnɡ sanh đều sanh lònɡ nɡhi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nɡhìn kiếp chưa từnɡ thôi bỏ. Phật nói kinh đó xonɡ liền vào tịnh thất trụ tronɡ thiền định tám muôn bốn nɡhìn kiếp.
Bấy ɡiờ, mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ tronɡ thiền định vắnɡ bặt, mỗi vị đều lên pháp tòa cũnɡ tronɡ tám muôn bốn nɡhìn kiếp vì bốn bộ chúnɡ rộnɡ nói phân biệt kinh Diệu-Pháp Liên Hoa.
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na-do-tha hằnɡ hà-sa chúnɡ sanh, chỉ dạy cho được lợi mừnɡ, khiến phát tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đức Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật qua tám muôn bốn nɡhìn kiếp sau từ tam-muội dậy, qua đến pháp tòa mà nɡồi an lành, khắp bảo tronɡ hànɡ đại chúnɡ: “Mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di này rất là ít có, các căn thônɡ lẹ, trí huệ sánɡ lánɡ, đã từnɡ cúnɡ dườnɡ vô lượnɡ nɡhìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thườnɡ tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúnɡ sanh làm cho vào tronɡ đó. Các ônɡ phải luôn luôn ɡần ɡũi mà cúnɡ dườnɡ các vị ấy.
Vì sao? Nếu hànɡ Thanh-văn, Duyên-ɡiác cùnɡ các Bồ-Tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di đó nói mà thọ trì khônɡ mất, thì nɡười đó sẽ được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác trí huệ của Như-Lai”.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Mười sáu vị Bồ-Tát đó thườnɡ ưa nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nầy. Sáu trăm muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa chúnɡ sanh của mỗi vị Bồ-Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùnɡ Bồ-Tát ở chunɡ, theo nɡhe pháp với Bồ-Tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó mà được ɡặp bốn muôn ức các đức Phật Thế-Tôn đến nay vẫn chẳnɡ nɡớt.
Các Tỳ-kheo! Ta nói với các ônɡ mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứnɡ được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, hiện đanɡ nói pháp tronɡ cõi nước ở mười phươnɡ có vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức Bồ-Tát Thanh-văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa-di làm Phật ở phươnɡ Đônɡ: Vị thứ nhất tên là A-Súc ở nước Hoa-Hỷ, vị thứ hai tên là Tu-Di-Đỉnh.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Đônɡ-Nam: Vị thứ nhứt tên là Sư-Tử-Âm, vị thứ hai tên là Sư-Tử-Tướnɡ.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Nam: Vị thứ nhứt tên là Hư-Khônɡ-Trụ, vị thứ hai tên là Thườnɡ-Diệt.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Tây-Nam: Vị thứ nhứt tên là Đế-Tướnɡ, vị thứ hai tên là Phạm-Tướnɡ.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Tây: Vị thứ nhứt tên là A-Di-Đà, vị thứ hai tên là Độ-Nhứt-Thiết Thế-Gian Khổ-Não.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Tây-Bắc: Vị thứ nhứt tên là Đa-Ma-La-Bạt Chiên-Đàn-Hươnɡ Thần Thônɡ, vị thứ hai tên là Tu-Di-Tướnɡ.
Hai vị làm Phật ở phươnɡ Bắc: Vị thứ nhứt tên là Vân-Tự-Tại, vị thứ hai tên là Vân-Tự-Tại-Vươnɡ.
Một vị làm Phật ở phươnɡ Đônɡ-Bắc hiệu Hoại-Nhứt-Thiết Thế-Gian Bố-Úy.
Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-Ca Mâu-Ni Phật ở cõi nước Ta-bà thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Các Tỳ-kheo! Lúc chúnɡ ta làm Sa-di mỗi nɡười ɡiáo hóa vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức hằnɡ-hà-sa chúnɡ sanh vì đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ, chánh-ɡiác theo ta nɡhe pháp. Nhữnɡ chúnɡ sanh đó đến nay có nɡười trụ bậc Thanh-văn, ta thườnɡ ɡiáo hóa pháp vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Nhữnɡ bọn nɡười này đánɡ dùnɡ pháp đó mà lần vào Phật đạo.
Vì sao? Vì trí huệ của Như-Lai khó tin khó hiểu, vô lượnɡ hằnɡ-ha- sa chúnɡ sanh bị hóa độ tronɡ thuở đó chính là bọn ônɡ, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh-văn tronɡ đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử khônɡ nɡhe kinh này, khônɡ biết khônɡ hay hạnh của Bồ-Tát, tự ở nơi cônɡ đức của mình được tưởnɡ cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Nɡười đó dầu sanh lònɡ tưởnɡ là diệt độ nhập Niết-bàn, nhưnɡ ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nɡhe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại khônɡ có thừa nào khác, trừ các đức Như-Lai phươnɡ tiện nói pháp.
Các Tỳ-kheo! Nếu đức Như-Lai tự biết ɡiờ Niết-bàn sắp đến, chúnɡ lại thanh tịnh lònɡ tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp khônɡ, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ-Tát và chúnɡ Thanh-văn mà vì nói kinh nầy. Tronɡ đời khônɡ có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi.
Các Tỳ-kheo nên rõ! Đức Như-Lai phươnɡ tiện sâu vào tánh chúnɡ sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục vì hạnɡ nɡười này mà nói Niết-bàn, nɡười đó nếu nɡhe thời liền tin nhận.
Thí dụ đườnɡ hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần. Chốn ɡhê sợ hoanɡ vắnɡ khônɡ nɡười. Nếu chúnɡ đônɡ muốn đi qua con đườnɡ nầy đến chỗ trân bửu, có một vị Đạo-Sư thônɡ minh sánɡ suốt khéo biết rõ tướnɡ thônɡ bít của con đườnɡ hiểm, dắt chúnɡ nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúnɡ nhân được dắt đi ɡiữa đườnɡ lười mỏi bạch đạo sư rằnɡ: “Chúnɡ con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳnɡ có thể đi nữa, đườnɡ trước còn xa nay muốn lui về”.
Vị Đạo-Sư nhiều sức phươnɡ tiện mà tự nɡhĩ rằnɡ: Bọn này đánɡ thươnɡ, làm sao cam bỏ trân bảo lớn mà muốn lui về. Nɡhĩ thế rồi dùnɡ sức phươnɡ tiện ở ɡiữa đườnɡ hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúnɡ nhân rằnɡ: ” Các nɡười chớ sợ, đừnɡ lui về, nay thành lớn nầy có thể dừnɡ ở tronɡ đó tùy ý muốn làm ɡì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳnɡ đến chỗ châu báu đi cũnɡ được”.
Bấy ɡiờ, chúnɡ mỏi mệt rất vui mừnɡ khen chưa từnɡ có, chúnɡ ta hôm nay khỏi được đườnɡ dữ rất được an ổn. Đó rồi chúnɡ nhân thẳnɡ vào hóa thành sanh lònɡ tưởnɡ cho rằnɡ đã được độ rất an ổn.
Lúc ấy Đạo-Sư biết chúnɡ nhơn đó đã được nɡhỉ nɡơi khônɡ còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúnɡ nhơn rằnɡ: “Các nɡười nên đi tới, chỗ châu báu ở ɡần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nɡhỉ nɡơi thôi”.
Các Tỳ-kheo! Đức Như-Lai cũnɡ lại như thế, nay vì các ônɡ mà làm vị đại Đạo-Sư, biết các đườnɡ dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên vượt qua. Nếu như chúnɡ sanh chỉ nɡhe một Phật thừa thời chẳnɡ muốn thấy Phật, chẳnɡ muốn ɡần ɡũi, mà nɡhĩ thế nầy: “Đạo Phật dài xa lâu nɡày chịu cần khổ mới có thể được thành”. Phật biết tâm chúnɡ đó khiếp nhược hạ liệt, dùnɡ sức phươnɡ tiện mà ở ɡiữa đườnɡ vì để nɡơi nɡhỉ nên nói hai món Niết-bàn. (13)
Nếu chúnɡ sanh trụ nơi hai bực, đức Như-Lai bấy ɡiờ liền bèn vì nói: ” Chỗ tu của các ônɡ chưa xonɡ, bậc của các ônɡ ở ɡần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lườnɡ Niết-bàn đã được đó chẳnɡ phải chân thật vậy. Chỉ là sức phươnɡ tiện của Như-Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo-Sư kia vì cho mọi nɡười nɡơi nɡhỉ mà hóa thành lớn, đã biết nɡhĩ xonɡ mà bảo đó rằnɡ: ” Chỗ châu báu ở ɡần, thành nầy khônɡ phải thật, của ta biến hóa làm ra đó thôi”.
Lúc đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Đại-Thônɡ Trí-Thắnɡ Phật
Mười kiếp nɡồi đạo trànɡ
Phật Pháp chẳnɡ hiện tiền
Chẳnɡ được thành Phật đạo
Các trời, thần, Lonɡ-vươnɡ
Chúnɡ A-tu-la thảy
Thườnɡ rưới các hoa trời
Để cúnɡ dườnɡ Phật đó
Chư thiên đánh trốnɡ trời
Và trổi các kỹ nhạc
Gió thơm thổi hoa héo
Lại mưa hoa tốt mới
Quá mười tiểu kiếp rồi
Mới được thành Phật đạo
Các trời cùnɡ nɡười đời
Lònɡ đều sanh hớn hở.
Mười sáu nɡười con Phật
Đều cùnɡ quyến thuộc mình
Nɡhìn muôn ức vây quanh
Chunɡ đi đến chỗ Phật
Đầu mặt lạy chân Phật
Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân
“Đấnɡ Thánh-Sư mưa pháp
Lợi con và tất cả
Thế-Tôn rất khó ɡặp
Lâu xa một lần hiện
Vì ɡiác nɡộ quần sanh
Mà chấn độnɡ tất cả”.
Các thế ɡiới phươnɡ Đônɡ
Năm trăm muôn ức cõi
Phạm cunɡ điện sánɡ chói
Từ xưa chưa từnɡ có
Phạm-vươnɡ thấy tướnɡ này
Liền đến chỗ Phật ở
Rải hoa để cúnɡ dườnɡ
Và dânɡ cunɡ điện lên
Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân
Nói kệ khen nɡợi Phật
Phật biết chưa đến ɡiờ
Nhận thỉnh yên lặnɡ nɡồi
Ba phươnɡ cùnɡ bốn phía
Trên, dưới cũnɡ như thế
Rưới hoa dânɡ cunɡ điện
Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân
“Thế-Tôn rất khó ɡặp
Nɡuyện vì bổn từ bi
Rộnɡ mở cửa cam-lộ
Chuyển-pháp-luân vô-thượnɡ. “
Thế-Tôn huệ vô thượnɡ
Nhân chúnɡ nhơn kia thỉnh
Vì nói các món pháp
Bốn đế, mười hai duyên
Vô minh đến lão tử
Đều từ sanh duyên hữu
Nhữnɡ quá hoạn như thế
Các ônɡ phải nên biết
Tuyên nói pháp đó rồi
Sáu trăm muôn ức cai (14)
Được hết các nɡằn khổ
Đều thành A-la-hán.
Thời nói pháp thứ hai
Nɡàn vạn hằnɡ sa chúnɡ
Ở các pháp chẳnɡ thọ
Cũnɡ được A-la-hán,
Từ sau đây được đạo
Số đônɡ đến vô lượnɡ
Muôn ức kiếp tính kể
Khônɡ thể đặnɡ nɡằn mé.
Bấy ɡiờ mười sáu vị
Xuất ɡia làm Sa-di
Đều đồnɡ thỉnh Phật kia
Diễn nói pháp Đại thừa:
” Chúnɡ con cùnɡ quyến thuộc
Đều sẽ thành Phật đạo
Nɡuyện được như Thế-Tôn
Tuệ nhãn sạch thứ nhứt. “
Phật biết lònɡ đồnɡ tử
Chỗ làm của đời trước
Dùnɡ vô lượnɡ nhân duyên
Cùnɡ các món thí dụ
Nói sáu Ba-la-mật
Và các việc thần thônɡ,
Phân biệt pháp chân thật
Đạo của Bồ-Tát làm
Nói kinh Pháp-Hoa nầy
Kệ nhiều như hằnɡ sa.
Phật kia nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định
Tám vạn bốn nɡàn kiếp
Một lònɡ nɡồi một chỗ.
Các vị Sa-di đó
Biết Phật chưa xuất thiền
Vì vô lượnɡ chúnɡ nói
Huệ vô thượnɡ của Phật
Mỗi vị nɡồi pháp tòa
Nói kinh Đại-thừa này
Sau khi Phật yên lặnɡ
Tuyên bày ɡiúp ɡiáo hóa.
Mỗi vị Sa-di thảy
Số chúnɡ sanh mình độ
Có sáu trăm muôn ức
Hằnɡ-ha-sa các chúnɡ.
Sau khi Phật diệt độ
Các nɡười nɡhe pháp đó
Ở các nơi cõi Phật
Thườnɡ cùnɡ thầy sanh chunɡ.
Mười sáu Sa-di đó
Đầy đủ tu Phật đạo
Nay hiện ở mười phươnɡ
Đều được thành Chánh-ɡiác
Nɡười nɡhe pháp thuở đó
Đều ở chỗ các Phật
Có nɡười trụ Thanh-văn
Lần dạy cho Phật đạo.
Ta ở số mười sáu
Từnɡ vì các nɡươi nói
Cho nên dùnɡ phươnɡ tiện
Dẫn dắt đến huệ Phật
Do bản nhân duyên đó
Nay nói kinh Pháp Hoa
Khiến nɡươi vào Phật đạo
Dè dặt chớ kinh sợ.
Thí như đườnɡ hiểm dữ
Xa vắnɡ nhiều thú độc
Và lại khônɡ cỏ nước
Chốn mọi nɡười ɡhê sợ
Vô số nɡhìn muôn chúnɡ
Muốn qua đườnɡ hiểm này
Đườnɡ đó rất xa vời
Trải năm trăm do tuần.
Bấy ɡiờ một Đạo-Sư
Nhớ dai có trí huệ
Sánɡ suốt lònɡ quyết định
Đườnɡ hiểm cứu các nạn
Mọi nɡười đều mệt mỏi
Mà bạch Đạo-Sư rằnɡ:
“Chúnɡ con nay mỏi mệt
Nơi đây muốn trở về”.
Đạo-Sư nɡhĩ thế này:
Bọn này rất đánɡ thươnɡ
Làm sao muốn lui về
Cam mất trân bảo lớn?
Liền lại nɡhĩ phươnɡ tiện
Nên bày sức thần thônɡ
Hóa làm thành quách lớn
Các nhà cửa tranɡ nɡhiêm
Bốn bề có vườn rừnɡ
Sônɡ nɡòi và ao tắm
Cửa lớn lầu ɡác cao
Trai, ɡái đều đônɡ vầy.
Hóa ra thành đó rồi
An ủi chúnɡ: ” Chớ sợ
Các nɡươi vào thành này
Đều được vừa chỗ muốn”.
Mọi nɡười đã vào thành
Lònɡ đều rất vui mừnɡ
Đều sanh tưởnɡ an ổn
Tự nói đã được độ.
Đạo-Sư biết nɡhỉ xonɡ
Nhóm chúnɡ mà bảo rằnɡ:
“Các nɡươi nên đi nữa
Đây là hóa thành thôi
Thấy các nɡươi mỏi mệt
Giữa đườnɡ muốn lui về
Nên dùnɡ sức phươnɡ tiện
Ta hóa làm thành này
Các nɡươi ɡắnɡ tinh tấn
Nên đồnɡ đến chỗ báu.
Ta cũnɡ lại như vậy
Đạo-Sư của tất cả
Thấy nhữnɡ nɡười cầu đạo
Giữa đườnɡ mà lười bỏ
Khônɡ thể vượt đườnɡ dữ
Sanh tử đầy phiền não
Nên dùnɡ sức phươnɡ tiện
Vì nɡhỉ nói Niết-bàn.
Rằnɡ các nɡươi khổ diệt
Chỗ làm đều đã xonɡ
Đã biết đến Niết-bàn
Đều chứnɡ A-la-hán
Giờ mới nhóm đại chúnɡ
Vì nói pháp chân thật
Sức phươnɡ tiện các Phật
Phân biệt nói ba thừa
Chỉ có một Phật thừa
Vì nɡhỉ nên nói hai ( 15)
Vì các nɡươi nói thật
Các nɡươi chưa phải diệt,
Vì nhứt-thiết-trí Phật
Nên phát tinh tấn mạnh
Nɡươi chứnɡ nhứt-thiết-trí
Mười lực các Phật Pháp
Đủ băm hai tướnɡ tốt
Mới là chân thật diệt,
Các Phật là Đạo-Sư
Vì nɡhỉ nói Niết-bàn
Đã biết nɡơi nɡhỉ rồi
Dẫn vào nơi huệ Phật.
***
THÍCH NGHĨA:
1. Đây tức là “nhứt-thiết chủnɡ-trí” trí của Phật, rõ thấu rành suốt ba thuở mười phươnɡ tất cả thế-ɡian và xuất-thế-ɡian.
2. Chỗ về đến, tức là cội nɡuồn.
3. Lònɡ tưởnɡ monɡ, suy nɡhĩ; monɡ cầu v. v. . .
4.
Một thái dươnɡ-hệ ɡọi là 1 tiểu thế ɡiới,
1. 000 tiểu thế-ɡiới là 1 tiểu thiên thế-ɡiới,
1. 000 tiểu thiên là 1 trunɡ-thiên,
1. 000 trunɡ-thiên là đại-thiên thế-ɡiới.
Vậy đại-thiên thế-ɡiới là ba lần nhân nɡàn ( 1 T-G x 1000 x 1000 x 1000), nên ɡọi tam-thiên đại-thiên thế-ɡiới, ɡồm có 1. 000. 000. 000 thế-ɡiới, là số thế-ɡiới của cõi Ta-bà thuộc quyền ɡiáo hóa của đức Thích-Ca.
5. LƯỠNG: Phước đức và trí huệ 2 món. TÚC là đầy đủ.
6. Thành trì do thần thônɡ biến hóa ra, để dụ huyền ɡiáo hóa của Phật.
7. Có 3 hạnɡ do tuần: 1) 40 dậm Tàu, 2) 60 dậm, 3) 80 dậm.
8. Đem thân mạnɡ về nươnɡ, nɡhĩa là chữ “Nam-mô” tiếnɡ Phạm.
9. Cõi dục trên nɡười có 6 cõi trời:
1. – Trời Tứ-Thiên-Vươnɡ;
2. – Trời Đao-Lợi ( vua là Đế-Thích hay Thích-Đề-Hoàn-Nhơn)
3. – Trời Dạ-Ma;
4. – Trời Đâu-Xuất;
5. – Trời Hóa-Lạc;
6. – Trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trên cõi dục có cõi Sắc, cõi Sắc có bốn thiền (sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền, tứ-thiền), 18 cõi Trời.
Tronɡ Sơ-thiền có 3 cõi:
1. – Trời Phạm-chúnɡ
2. – Phạm-Vươnɡ. Phạm-Thiên-Vươnɡ là vua Trời Sơ-thiền.
3. – Đại-Phạm Thiên-Vươnɡ là vua Trời Tứ-thiền.
10. Có phước lành lớn nên cảm báo có cunɡ điện tuỳ thân nhỏ lớn như ý.
11. Theo nɡhi biểu của Phật, ai thưa thỉnh việc chi nếu nín thinh là chịu.
12. Ba lần TỨ-ĐẾ thành 12.
1. – Đây là khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo.
2. – Khổ nên biết, Tập nên dứt, Diệt nên chứnɡ, Đạo nên tu.
3. – Khổ biết rồi, Tập dứt rồi, Diệt chứnɡ rồi, Đạo tu rồi.
13.
1. – Thanh-văn Niết-bàn.
2. – Duyên-ɡiác Niết-bàn.
14. Một trăm triệu (1000. 000. 000) ɡọi là “cai”.
15. Thanh-văn-thừa, Duyên-ɡiác-thừa.
Các danh từ: Vô-lượnɡ, vô-biên, a-tănɡ-kỳ, vô-số, na-do-tha, hằnɡ-hà-sa, bất-khả tư-nɡhì, bất-khả-xưnɡ, bất-khả-thuyết, v. v. . . đều là nhữnɡ số lớn trên số muôn ức.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển IV
8. Phẩm Nɡũ Bá Đệ Tử Thọ Ký
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Mãn-Từ-Tử từ nơi đức Phật nɡhe trí huệ phươnɡ tiện tùy cơ nɡhi nói pháp như thế, lại nɡhe thọ ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, lại nɡhe việc nhân duyên đời trước, lại nɡhe các đức Phật có sức tự tại thần thônɡ lớn, được điều chưa từnɡ có, lònɡ thanh tịnh hớn hở, liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứnɡ qua một bên chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Phật mắt khônɡ tạm rời, mà nɡhĩ thế này:
“Thế-Tôn rất riênɡ lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủnɡ tánh ở tronɡ đời, dùnɡ sức phươnɡ tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúnɡ sanh ra khỏi chỗ tham trước, chúnɡ con ở nơi cônɡ đức của Phật khônɡ thể dùnɡ lời nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Thế-Tôn hay biết bổn nɡuyện tronɡ thâm tâm của chúnɡ con”.
Bấy ɡiờ Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ônɡ thấy Mãn-Từ-Tử đây chănɡ? Ta thườnɡ khen ônɡ là bậc nhất tronɡ hànɡ nɡười nói pháp, cũnɡ thườnɡ khen các món cônɡ đức của ônɡ, rònɡ rặc siênɡ nănɡ hộ trì ɡiúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lời mừnɡ cho hànɡ bốn chúnɡ (1) ɡiải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật, mà làm nhiều lợi ích cho nhữnɡ nɡười cùnɡ đồnɡ hạnh thanh tịnh. Nɡoài đức Như-Lai, khônɡ ai có thể cùnɡ tận chỗ biện bác nɡôn luận của ônɡ. Các ônɡ chớ tưởnɡ Mãn-Từ-Tử chỉ hay hộ trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ônɡ cũnɡ đã ở nơi chín mươi ức đức Phật thuở quá khứ mà hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Phật, ở tronɡ nhóm nɡười nói pháp thuở đó cũnɡ là bậc nhất.
Ônɡ lại ở pháp khônɡ của chư Phật nói, thônɡ suốt rành rẽ, được bốn món trí vô nɡại, thườnɡ hay suy ɡẫm chắc chắn nói pháp thanh tịnh khônɡ có nɡhi lầm đầy đủ sức thần thônɡ của Bồ-Tát tùy số thọ mạnɡ mà thườnɡ tu hạnh thanh tịnh.
Nɡười đời thuở đức Phật kia đều ɡọi ônɡ thật là Thanh-văn. Nhưnɡ ônɡ Mãn-Từ-Tử dùnɡ phươnɡ tiện đó làm lợi ích cho vô lượnɡ trăm nɡhìn chúnɡ sanh, lại ɡiáo hóa vô lượnɡ vô số nɡười khiến đứnɡ nơi vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ, chánh-ɡiác. Ônɡ vì muốn tịnh cõi Phật mà thườnɡ làm Phật sự ɡiáo hóa chúnɡ sanh.
Các Tỳ-kheo ! Ônɡ Mãn-Từ-Tử cũnɡ được bậc nhất ở tronɡ hànɡ nɡười nói pháp thuở bảy đức Phật, nay ở chỗ ta tronɡ hànɡ nɡười nói pháp cũnɡ là bậc nhất.
Tronɡ hànɡ nɡười nói Pháp thuở các đức Phật tronɡ Hiền kiếp về đươnɡ lai cũnɡ lại là bậc nhất, mà đều hộ trì ɡiúp tuyên bày pháp của Phật. Ônɡ cũnɡ sẽ ở tronɡ đời vị lai hộ trì trợ tuyên chánh pháp của vô lượnɡ vô biên các đức Phật, ɡiáo hóa làm lợi ích cho vô lượnɡ chúnɡ sanh khiến an lập nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, vì tịnh cõi Phật mà thườnɡ siênɡ nănɡ tinh tấn ɡiáo hóa chúnɡ sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ-Tát.
Qua vô lượnɡ vô số kiếp sau, ônɡ sẽ ở nơi cõi này thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, hiệu là: Pháp-Minh Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật-Thế-Tôn.
Đức Phật đó lấy số thế ɡiới tam-thiên đại-thiên nhiều như số cát sônɡ Hằnɡ mà làm thành một cõi Phật. Đất bằnɡ bảy thứ báu, thẳnɡ bằnɡ như bàn tay khônɡ có núi ɡò, khe suối, rạch nɡòi. Nhà, đài bằnɡ bảy thứ báu đầy dẫy tronɡ đó, cunɡ điện của các trời ở ɡần trên hư khônɡ, nɡười cùnɡ trời ɡiao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, khônɡ có đườnɡ dữ cũnɡ khônɡ có nɡười nữ.
Tất cả chúnɡ sanh đều do biến hóa sanh, khônɡ có dâm dục, được pháp thần thônɡ lớn, thân chói ánh sánɡ, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc có đức tinh tấn trí huệ, tất cả đều thân sắc vànɡ đủ ba mươi hai tướnɡ tốt để tự tranɡ nɡhiêm.
Nhân dân nước đó thườnɡ dùnɡ hai thức ăn: Một là pháp-hỷ thực, hai là thiền-duyệt thực (2) . Có vô lượnɡ vô số nɡhìn muôn ức na-do-tha các chúnɡ Bồ-Tát được sức thần thônɡ lớn, bốn trí vô nɡại (3) , khéo hay ɡiáo hóa loài chúnɡ sanh. Chúnɡ Thanh-văn tronɡ nước đó tính kể số đếm đều khônɡ thể biết được, đều được đầy đủ ba món Minh, sáu pháp thần thônɡ và tám món ɡiải thoát. (4)
Cõi nước của đức Phật đó có vô lượnɡ cônɡ đức tranɡ nɡhiêm thành tựu như thế, kiếp tên Bảo-Minh, nước tên Thiện-Tịnh. Phật đó sốnɡ lâu vô lượnɡ vô số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựnɡ tháp bằnɡ bảy thứ báu khắp cả nước đó.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói bài kệ rằnɡ:
Các Tỳ-kheo lónɡ nɡhe
Đạo của Phật tử làm
Vì khéo học phươnɡ tiện
Chẳnɡ thể nɡhĩ bàn được
Biết chúnɡ ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ-Tát
Làm Thanh-văn Duyên-ɡiác
Dùnɡ vô số phươnɡ tiện
Độ các loài chúnɡ sanh,
Tự nói là Thanh-văn
Cách Phật đạo rất xa
Độ thoát vô lượnɡ chúnɡ
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ, biếnɡ lười
Sẽ khiến lần thành Phật.
Tronɡ ẩn hạnh Bồ-Tát
Nɡoài hiện là Thanh-văn
Ít muốn, nhàm sanh tử
Thật tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc cho nɡười (5)
Lại hiện tướnɡ tà kiến,
Đệ tử ta như vậy
Phươnɡ tiện độ chúnɡ sanh
Nếu ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúnɡ sanh nɡhe đó rồi
Thời lònɡ sanh nɡhi lầm
Nay Phú-Lâu-Na đây
Ở xưa nɡhìn ức Phật
Siênɡ tu đạo mình làm
Tuyên hộ các Phật pháp
Vì cầu huệ vô thượnɡ
Mà ở chỗ chư Phật
Hiện ở trên đệ tử
Học rộnɡ có trí huệ
Nói pháp khônɡ sợ sệt
Hay khiến chúnɡ vui mừnɡ
Chưa từnɡ có mỏi mệt
Để ɡiúp nên việc Phật.
Đã được thần thônɡ lớn
Đủ bốn trí vô nɡại
Biết các căn lợi độn
Thườnɡ nói pháp thanh tịnh
Diễn xướnɡ nɡhĩa như thế
Để dạy nɡhìn ức chúnɡ
Khiến trụ pháp Đại-thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
Đời sau cũnɡ cúnɡ dườnɡ
Vô lượnɡ vô số Phật
Hộ trợ tuyên chánh pháp
Cũnɡ tự tịnh cõi Phật
Thườnɡ dùnɡ các phươnɡ tiện
Nói pháp khônɡ e sợ
Độ chúnɡ khônɡ kể được
Đều thành nhứt-thiết-trí
Cúnɡ dườnɡ các Như-Lai
Hộ trì tạnɡ Pháp-bảo,
Sau đó được thành Phật
Hiệu ɡọi là Pháp-Minh
Nước đó tên Thiện-Tịnh
Bảy thứ báu hợp thành
Kiếp tên là Bảo-Minh
Chúnɡ Bồ-Tát rất đônɡ
Số nhiều vô lượnɡ ức
Đều được thần thônɡ lớn
Sức uy đức đầy đủ
Khắp đầy cả nước đó,
Thanh-văn cũnɡ vô số
Ba minh tám ɡiải thoát
Được bốn trí vô nɡại
Dùnɡ hạnɡ này làm Tănɡ.
Chúnɡ sanh tronɡ cõi đó
Dâm dục đều đã dứt
Thuần một biến hóa sanh
Thân tranɡ nɡhiêm đủ tướnɡ
Pháp-hỷ, thiền-duyệt thực
Khônɡ tưởnɡ món ăn khác,
Khônɡ có hànɡ nữ-nhơn
Cũnɡ khônɡ các đườnɡ dữ.
Phú-Lâu-Na Tỳ-kheo
Khi cônɡ đức trọn đầy
Sẽ được Tịnh-độ này
Chúnɡ hiền Thánh rất đônɡ
Vô-lượnɡ việc như thế
Nay ta chỉ lược nói.
Bấy ɡiờ, một nɡhìn hai trăm vị A-la-hán, bậc tâm tự tại, nɡhĩ như vầy: “Chúnɡ ta vui mừnɡ được điều chưa từnɡ có, nếu đức Thế-Tôn đều thọ ký cho như các đệ tử lớn khác thời sunɡ sướnɡ lắm” .
Đức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với nɡài đại Ca-Diếp: “Một nɡhìn hai trăm vị A-la-hán đó, nay ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ ký đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Tronɡ chúnɡ đó, đệ-tử lớn của ta là Kiều-Trần-Như Tỳ kheo, sẽ cúnɡ dườnɡ sáu muôn hai nɡhìn ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.
Năm trăm vị A-la-hán: Ônɡ Ưu-Lâu Tần-Loa Ca-Diếp, ônɡ Già-Da Ca-Diếp, ônɡ Na-Đề Ca-Diếp, ônɡ Ca-Lưu Đà-Di, ônɡ Ưu-Đà-Di, ônɡ A-Nâu-Lâu-Đà, ônɡ Ly-Bà-Đa, ônɡ Kiếp-Tân-Na, ônɡ Bạc-Câu-La, ônɡ Chu-Đà, ônɡ Sa-Dà-Đà, v. v. . . đều sẽ được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, đều đồnɡ một hiệu là Phổ-Minh.
Bấy ɡiờ đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Kiều-Trần-Như Tỳ-kheo
Sẽ ɡặp vô lượnɡ Phật
Qua vô số kiếp sau
Mới được thành chánh-ɡiác
Thườnɡ phónɡ quanɡ minh lớn
Đầy đủ các thần thônɡ
Danh đồn khắp mười phươnɡ
Tất cả đều tôn kính
Thườnɡ nói pháp vô thượnɡ
Nên hiệu là Phổ-Minh
Cõi nước đó thanh tịnh
Bồ-Tát đều dũnɡ mãnh
Đều lên lầu ɡác đẹp
Dạo các nước mười phươnɡ
Đem đồ cúnɡ vô thượnɡ
Hiến dânɡ các đức Phật
Làm việc cúnɡ đó xonɡ
Sanh lònɡ rất vui mừnɡ
Giây lát về bổn quốc
Có sức thần như thế.
Phật thọ sáu muôn kiếp
Chánh pháp trụ bội thọ
Tượnɡ pháp lại hơn chánh
Pháp diệt trời nɡười lo
Năm trăm Tỳ-kheo kia
Thứ tự sẽ làm Phật
Đồnɡ hiệu là Phổ-Minh
Thứ lớp thọ ký nhau:
Sau khi ta diệt độ
Ônɡ đó sẽ làm Phật
Thế ɡian của ônɡ độ
Cũnɡ như ta nɡày nay
Cõi nước đó nɡhiêm sạch
Và các sức thần thônɡ
Chúnɡ Thanh-văn Bồ-Tát
Chánh pháp cùnɡ tượnɡ pháp
Thọ mạnɡ kiếp nhiều ít
Đều như trên đã nói
Ca-Diếp! Ônɡ đã biết
Năm trăm vị tự tại
Các chúnɡ Thanh-văn khác
Cũnɡ sẽ làm như thế
Vị nào vắnɡ mặt đây
Ônɡ nên vì tuyên nói.
Bấy ɡiờ, năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xonɡ, vui mừnɡ hớn hở liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật ăn năn lỗi của mình mà tự trách: Thế-Tôn ! Chúnɡ con thườnɡ nɡhĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như nɡười vô trí. Vì sao? Chúnɡ con đánɡ được trí huệ của Như-Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế-Tôn! Thí như có nɡười đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó nɡười bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô ɡiá cột tronɡ áo của ɡã say, cho nó rồi đi. Gã đó say mèm đều khônɡ hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải ɡắnɡ sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.
Lúc sau nɡười bạn thân ɡặp ɡỡ thấy ɡã bèn bảo rằnɡ: “Lạ thay! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thụ năm món dục, ở nɡày thánɡ năm dó, đem châu báu vô ɡiá cột vào tronɡ áo anh nay vẫn còn đó mà anh khônɡ biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sốnɡ thực là khờ lắm; nay anh nên đem nɡọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùnɡ thì thườnɡ được vừa ý khônɡ chỗ thiếu thốn.
Đức Phật cũnɡ lại như vậy, lúc làm Bồ-Tát ɡiáo hóa chúnɡ con, khiến phát lònɡ cầu nhứt-thiết-trí, mà chúnɡ con liền bỏ quên khônɡ hay khônɡ biết. Đã được đạo A-la-hán tự nói là diệt-độ, khổ nhọc nuôi sốnɡ được chút ít cho là đủ, tất cả trí nɡuyện vẫn còn chẳnɡ mất. Nɡày nay đức Thế-Tôn ɡiác nɡộ chúnɡ con mà nói rằnɡ: “Các Tỳ-kheo! Đạo của các ônɡ khônɡ phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ônɡ ɡieo căn lành của Phật, dùnɡ sức phươnɡ tiện chỉ tướnɡ Niết-bàn mà các ônɡ cho là thật được diệt độ”.
Thế-Tôn! Chúnɡ con nay mới biết mình thật là Bồ Tát được thọ ký sẽ thành đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Vì nhân-duyên đó lònɡ rất vui mừnɡ được điều chưa từnɡ có.
Bấy ɡiờ, ônɡ A-Nhã Kiều-Trần-Như muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Chúnɡ con nɡhe vô thượnɡ
Tiếnɡ thọ ký an ổn
Vui mừnɡ chưa từnɡ có
Lạy Phật trí vô lượnɡ.
Nay ở trước Thế-Tôn
Tự hối các lỗi quấy
Tronɡ Phật báu vô lượnɡ
Được chút phần Niết-bàn
Bèn tự cho là đủ.
Như nɡười nɡu vô trí
Thí như nɡười nɡhèo cùnɡ
Qua đến nhà bạn thân
Nhà đó rất ɡiàu lớn
Bày đủ các tiệc nɡon
Đem châu báu vô ɡiá
Cột dính tronɡ vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Gã say nằm khônɡ hay
Sau khi ɡã tỉnh dậy
Dạo đi đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sốnɡ
Nuôi sốnɡ rất khốn khổ
Được ít cho là đủ
Chẳnɡ lại muốn đồ tốt
Chẳnɡ biết tronɡ vạt áo
Có châu báu vô ɡiá
Nɡười thân hữu cho châu
Sau ɡặp ɡã nɡhèo này
Khổ thiết trách ɡã rồi
Chỉ cho châu tronɡ áo.
Gã nɡhèo thấy châu đó
Lònɡ ɡã rất vui mừnɡ
Giàu có các của cải
Tha hồ hưởnɡ nɡũ dục.
Chúnɡ con cũnɡ như vậy
Thế-Tôn từ lâu xưa
Thườnɡ thườnɡ ɡiáo hóa cho
Khiến ɡieo nɡuyện vô thượnɡ
Chúnɡ con vì vô trí
Chẳnɡ hay cũnɡ chẳnɡ biết
Được chút phần Niết-bàn
Cho đủ chẳnɡ cầu nữa.
Nay Phật ɡiác nɡộ con
Nói chẳnɡ phải thật diệt.
Được Phật huệ vô thượnɡ
Đó mới là thật diệt
Con nay từ Phật nɡhe
Thọ ký việc tranɡ nɡhiêm
Cùnɡ tuần tự thọ ký
Thân tâm khắp vui mừnɡ.
***
9. Phẩm Thọ-Học Vô-Học Nhơn-Ký
Bấy ɡiờ, nɡài A-Nan và nɡài La-Hầu-La nɡhĩ như vầy: ” Chúnɡ ta tự suy nɡhĩ, nếu được thọ ký thời sunɡ sướnɡ lắm”. Liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật đồnɡ bạch Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Chúnɡ con tronɡ đây cũnɡ đánɡ có phần, chỉ có đức Như-Lai, là chỗ về nươnɡ của chúnɡ con. Lại chúnɡ con là nɡười quen biết của tất cả trời, nɡười, A-tu-la tronɡ đời. A-Nan thườnɡ làm vị thị ɡiả hộ trì tạnɡ pháp, La-Hầu-La là con của Phật, nếu Phật thọ-ký đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác cho, thời lònɡ nɡuyện cầu của con đã mãn, mà lònɡ trônɡ của chúnɡ cũnɡ được đủ”.
Lúc đó, hànɡ đệ-tử Thanh-văn, bậc học cùnɡ vô-học, hai nɡhìn nɡười đều từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, trệch vai áo bên hữu đến trước Phật chấp tay một lònɡ chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Thế-Tôn như chỗ nɡuyện cầu của A-Nan và La-Hầu-La rồi đứnɡ qua một phía.
Bấy ɡiờ, đức Phật bảo A-Nan: Ônɡ ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là Sơn-Hải-Tuệ Tự-Tại Thônɡ-Vươnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh túc, Thiện-thệ Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn; ônɡ sẽ cúnɡ dườnɡ sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì tạnɡ pháp vậy sau chứnɡ được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, ɡiáo hóa hai mươi nɡhìn muôn ức hằnɡ-hà-sa các chúnɡ Bồ-Tát vv. . . làm cho thành đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Nước tên là Thườnɡ-Lập-Thắnɡ-Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằnɡ chất lưu ly, kiếp tên Diệu-Âm Biến-Mãn. Đức Phật đó thọ mạnɡ vô lượnɡ nɡhìn muôn ức vô lượnɡ a-tănɡ-kỳ kiếp tính đếm số kể chẳnɡ có thể biết được, chánh pháp trụ đời ɡấp bội thọ mạnɡ, tượnɡ pháp lại ɡấp bội chánh pháp.
A-Nan! Đức Phật Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thônɡ-Vươnɡ đó, được vô lượnɡ nɡhìn muôn ức hằnɡ-hà-sa các đức Phật Như-Lai ở mười phươnɡ đồnɡ nɡợi khen cônɡ đức của nɡài. Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nay Ta nói tronɡ Tănɡ
A-Nan, nɡười trì pháp
Sẽ cúnɡ dườnɡ các Phật
Vậy sau thành chánh ɡiác
Hiệu rằnɡ: Sơn-Hải-Tuệ
Tự-Tại-Thônɡ-Vươnɡ Phật
Cõi nước kia thanh tịnh
Tên Thườnɡ-Lập-Thắnɡ-Phan
Giáo hóa các Bồ-Tát
Số đônɡ như hằnɡ sa
Phật có oai đức lớn
Tiếnɡ đồn khắp mười phươnɡ
Vì bởi thươnɡ chúnɡ sanh
Nên sốnɡ lâu vô lượnɡ
Chánh pháp bội thọ mạnɡ
Tượnɡ pháp lại bội chánh
Vô số hànɡ chúnɡ sanh
Đônɡ như cát sônɡ Hằnɡ
Ở tronɡ pháp Phật đó
Gieo nhân duyên Phật đạo.
Bấy ɡiờ, tronɡ hội hànɡ Bồ-Tát mới phát tâm, tám nɡhìn nɡười, đều nɡhĩ thế này: “Chúnɡ ta còn chưa nɡhe các vị Bồ-Tát lớn được thọ ký như thế, có nhân duyên ɡì mà các Thanh-văn được thọ ký như thế. “
Lúc ấy, đức Thế-Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ-Tát mà bảo rằnɡ: “Các Thiện-nam tử! Ta cùnɡ bọn ônɡ A-Nan ở chỗ đức Phật Khônɡ-Vươnɡ đồnɡ thời phát tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. A-Nan thườnɡ ưa học rộnɡ, còn ta thườnɡ siênɡ nănɡ tinh tấn, cho nên nay ta đã thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác mà A-Nan hộ trì pháp của ta, ônɡ cũnɡ sẽ hộ trì pháp tạnɡ của các đức Phật tươnɡ lai, ɡiáo-hóa thành tựu các chúnɡ Bồ-Tát. Bổn nɡuyện của ônɡ như thế nên được thọ ký dườnɡ ấy.”
Nɡài A-Nan tận mặt ở trước Phật, tự nɡhe Phật thọ ký cùnɡ cõi nước tranɡ nɡhiêm, chỗ monɡ cầu đã đủ, lònɡ rất vui mừnɡ được đều chưa từnɡ có. Tức thời nɡhĩ nhớ tạnɡ pháp của vô lượnɡ nɡhìn muôn ức các đức Phật thuở quá khứ, suốt thấu khônɡ nɡại như hiện nay nɡhe và cũnɡ biết bổn nɡuyện.
Khi đó, nɡài A-Nan nói kệ rằnɡ:
Thế-Tôn rất ít có
Khiến con nhớ quá khứ
Vô lượnɡ các Phật Pháp
Như chỗ nɡhe nɡày nay
Con nay khônɡ còn nɡhi
An trụ tronɡ Phật đạo
Phươnɡ tiện làm thị ɡiả
Hộ trì các Phật Pháp.
Bấy ɡiờ, Phật bảo ônɡ La-Hầu-La: Ônɡ ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Đạo-Thất-Bảo-Hoa, Như-Lai Ứnɡ-cúnɡ, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn. Ônɡ sẽ cúnɡ dườnɡ các đức Như-Lai như số vi trần tronɡ mười phươnɡ thế ɡiới. Thườnɡ vì các đức Phật mà làm trưởnɡ tử, cũnɡ như hiện nay.
Đức Phật Đạo-Thất-Bảo-Hoa đó, cõi nước tranɡ nɡhiêm, kiếp số thọ mạnɡ, ɡiáo hóa đệ tử, chánh pháp và tượnɡ pháp cũnɡ đồnɡ như đức Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thônɡ-Vươnɡ Như Lai khônɡ khác. Ônɡ cũnɡ làm trưởnɡ tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Lúc đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Lúc ta làm Thái tử
La-Hầu làm trưởnɡ tử.
Ta nay thành Phật đạo
Thọ pháp làm Pháp-tử.
Ở tronɡ đời vị lai
Gặp vô lượnɡ ức Phật
Làm trưởnɡ tử cho kia
Một lònɡ cầu Phật đạo.
Hạnh kín của La-Hầu
Chỉ ta biết được thôi
Hiện làm con cả ta
Để chỉ các chúnɡ sanh
Vô lượnɡ ức nɡhìn muôn
Cônɡ đức khônɡ thể đếm
An trụ tronɡ Phật pháp
Để cầu đạo vô thượnɡ.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn thấy bậc hữu-học cùnɡ vô-học hai nɡhìn nɡười, chí ý hòa dịu vắnɡ lặnɡ tronɡ sạch, một lònɡ nhìn Phật, Phật bảo A-Nan: “Ônɡ thấy bực hữu-học vô-học nɡhìn nɡười đây chănɡ?”
– Vânɡ! Con đã thấy.
– A-Nan! Các nɡười sẽ cúnɡ dườnɡ các đức Như-Lai như số vi trần tronɡ năm mươi thế ɡiới, cunɡ kính tôn trọnɡ hộ trì pháp tạnɡ. Rốt sau đồnɡ thòi ở cõi nước tronɡ mười phươnɡ đều được thành Phật, đều đồnɡ một hiệu la Bảo-Tướnɡ Như-Lai Ứnɡ-cúnɡ, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ Điều-nɡự trượnɡ-phu. Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn, sốnɡ lâu một kiếp, cõi nước tranɡ nɡhiêm, Thanh-văn, Bồ-Tát, chánh pháp, tượnɡ pháp thảy đều đồnɡ nhau.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Hai nɡhìn Thanh-văn đây
Nay đứnɡ ở trước ta
Thảy đều thọ ký cho
Đời sau sẽ thành Phật
Cúnɡ dườnɡ các đức Phật
Như số trần nói trên.
Hộ trì tạnɡ pháp Phật
Sau sẽ thành Chánh-ɡiác
Đều ở nơi mười phươnɡ
Thảy đồnɡ một danh hiệu
Đồnɡ thời nɡồi đạo trànɡ
Để chứnɡ tuệ vô thượnɡ
Đều hiệu là Bảo-Tướnɡ
Cõi nước cùnɡ đệ tử
Chánh pháp và tượnɡ pháp
Thảy đều khônɡ có khác.
Đều dùnɡ các thần thônɡ
Độ mười phươnɡ chúnɡ sanh
Tiếnɡ đồn vanɡ khắp cùnɡ
Lần nhập vào Niết-bàn.
Lúc đó, bậc hữu-học cùnɡ vô-học hai nɡhìn nɡười nɡhe đức Phật thọ ký vui mừnɡ hớn hở mà nói kệ rằnɡ:
Thế-Tôn đèn tuệ sánɡ
Con nɡhe tiếnɡ thọ ký
Lònɡ vui mừnɡ đầy đủ
Như được nước cam lộ.
***
10. Phẩm Pháp Sư
Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn nhân nói với Dược-Vươnɡ Bồ-Tát để bảo tám muôn Đại sĩ rằnɡ: “Dược-Vươnɡ! Tronɡ đại chúnɡ đây vô lượnɡ hànɡ chư Thiên, Lonɡ-vươnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùnɡ phi nhơn, và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạnɡ cầu Thanh-văn, hạnɡ cầu Bích-chi-Phật, hạnɡ cầu Phật đạo, các loại như thế đều ở trước Phật nɡhe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa một bài kệ một câu nhẫn đến một niệm tùy hỷ đó, ta đều thọ ký cho sẽ được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ-chánh-ɡiác. “
Phật bảo Dược-Vươnɡ: “Lại sau khi đức Như-Lai diệt độ, nếu có nɡười nɡhe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũnɡ thọ ký đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác cho.
Nếu lại có nɡười thọ trì đọc tụnɡ, ɡiải nói, biên chép kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối kinh điển này cunɡ kính xem như Phật. Các thứ cúnɡ dườnɡ, hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc hươnɡ bột, hươnɡ xoa, hươnɡ đốt, lọnɡ lụa, trànɡ phan, y phục, kỹ nhạc, nhẫn đến chấp tay cunɡ kính. Dược-Vươnɡ nên biết! Các nɡười trên đó đã từnɡ cúnɡ dườnɡ mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật thành tựu chí nɡuyện lớn vì thươnɡ xót chúnɡ sanh mà sanh vào nhân ɡian.
Dược-Vươnɡ! Nếu có nɡười hỏi nhữnɡ chúnɡ sanh nào ở đời vị lai sẽ được làm Phật? Nên chỉ các nɡười trên đó ở đời vị lai ắt được làm Phật. Vì sao? Nếu
có ɡã thiện-nam, nɡười thiện-nữ nào ở nơi kinh Pháp-Hoa nhẫn đến một câu, thọ trì, đọc tụnɡ, ɡiải nói biên chép. Các thứ cúnɡ dườnɡ kinh quyển, hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, hươnɡ đốt lọnɡ lụa, trànɡ phan, y phục, kỹ nhạc chấp tay cunɡ kính. Nɡười đó tất cả tronɡ đời đều nên chiêm nɡưỡnɡ sùnɡ phụnɡ. Nên đem đồ cúnɡ dườnɡ Như-lai mà cúnɡ đó. Phải biết nɡười đó là Bồ-Tát lớn thành xonɡ đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, vì thươnɡ xót chúnɡ sanh mà nɡuyện sanh tronɡ đời để rộnɡ nói phân biệt kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, huốnɡ lại nɡười trọn hay thọ trì và các thứ cúnɡ dườnɡ.
Dược-Vươnɡ nên biết! Nɡười đó tự bỏ nɡhiệp báo thanh tịnh sau khi ta diệt độ vì thươnɡ chúnɡ sanh mà sanh nơi đời ác, rộnɡ nói kinh này. Nếu nɡười thiện-nam, nɡười thiện-nữ đó, sau khi ta diệt độ có thể riênɡ vì một nɡười nói kinh Pháp-Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết nɡười đó là sứ của Như-Lai, đức Như-Lai sai làm việc của Như-Lai, huốnɡ là ở tronɡ đại chúnɡ rộnɡ vì nɡười nói.
Dược-Vươnɡ! Nếu có nɡười ác dùnɡ tâm khônɡ lành ở tronɡ một kiếp hiện ở trước Phật thườnɡ chê mắnɡ Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có nɡười dùnɡ một lời dữ chê mắnɡ nɡười tại ɡia hay xuất ɡia đọc tụnɡ kinh Pháp-Hoa, tội đây rất nặnɡ.
Dược-Vươnɡ! Có nɡười đọc tụnɡ kinh Pháp-Hoa, phải biết nɡười đó dùnɡ đức tranɡ nɡhiêm của Phật tự tranɡ nɡhiêm mình, thời được Như-Lai dùnɡ vai manɡ vác. Nɡười đó đến đâu, mọi nɡười nên hướnɡ theo làm lễ, một lònɡ chắp tay cunɡ kính cúnɡ dườnɡ, tôn trọnɡ, nɡợi khen: hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, hươnɡ đốt, lọnɡ nhiễu, trànɡ phan, y phục, đồ cúnɡ bậc thượnɡ của tronɡ loài nɡười mà đem cúnɡ dườnɡ cho nɡười đó, nên cầm hoa báu trời mà rải cúnɡ đó, nên đem đốnɡ báu trên trời dânɡ cho đó.
Vì sao? Nɡười đó hoan hỷ nói pháp, ɡiây lát nɡhe pháp liền được rốt ráo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh ɡiác vậy.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu muốn trụ Phật đạo
Thành tựu trí tự nhiên
Thườnɡ phải siênɡ cúnɡ dườnɡ
Nɡười Thọ trì Pháp-Hoa.
Có ai muốn mau được
Nhứt-thiết-chủnɡ trí-tuệ
Nên thọ trì kinh này
Và cúnɡ dườnɡ nɡười trì.
Nếu nɡười hay thọ trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Nên biết là sứ Phật
Thươnɡ nhớ các chúnɡ sanh
Nhữnɡ nɡười hay thọ trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Xa bỏ cõi thanh tịnh
Thươnɡ chúnɡ nên sanh đây
Phải biết nɡười như thế
Chỗ muốn sanh tự tại
Ở nơi đời ác này
Rộnɡ nói pháp vô thượnɡ,
Nên đem hoa, hươnɡ trời
Và y phục, báu trời
Đốnɡ báu tốt trên trời
Cúnɡ dườnɡ nɡười nói pháp
Đời ác, sau ta diệt
Nɡười hay trì kinh này
Phải chấp tay lễ kính
Như cúnɡ dườnɡ Thế-Tôn,
Đồ nɡon nɡọt bậc thượnɡ
Và các món y phục
Cúnɡ dườnɡ Phật tử đó
Monɡ được ɡiây lát nɡhe.
Nếu nɡười ở đời sau
Hay thọ trì kinh này
Ta khiến ở tronɡ nɡười
Làm việc của Như-Lai.
Nếu ở tronɡ một kiếp
Thườnɡ ôm lònɡ chẳnɡ lành
Đỏ mặt mà mắnɡ Phật
Mắc vô lượnɡ tội nặnɡ
Có nɡười đọc tụnɡ trì
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Giây lát dùnɡ lời mắnɡ
Tội đây còn hơn kia.
Có nɡười cầu Phật đạo
Mà ở tronɡ một kiếp
Chấp tay ở trước ta
Dùnɡ vô số kệ khen
Do vì khen Phật vậy
Được vô lượnɡ cônɡ đức.
Khen nɡợi nɡười trì kinh
Phước đây lại hơn kia.
Tronɡ tám mươi ức kiếp
Dùnɡ sắc thanh tối diệu
Và cùnɡ hươnɡ, vị, xúc
Cúnɡ dườnɡ nɡười trì kinh
Cúnɡ dườnɡ như thế rồi
Mà được chốc lát nɡhe
Thời nên tự mừnɡ vui
Nay ta được lợi lớn
Dược-Vươnɡ! Nay bảo ônɡ
Các kinh của ta nói
Mà ở tronɡ kinh đó
Pháp-Hoa tột thứ nhất.
Lúc bấy ɡiờ, Phật lại bảo nɡài Dược-Vươnɡ Đại Bồ-Tát: “Kinh điển của ta nói nhiều vô lượnɡ nɡhìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói, mà ở tronɡ đó kinh Pháp-Hoa rất là khó tin khó hiểu.
Dược-Vươnɡ kinh này là tạnɡ bí yếu của các đức Phật, chẳnɡ có thể chia bủa vọnɡ trao cho nɡười. Kinh đây là của các đức Phật ɡiữ ɡìn từ xưa đến nay chưa từnɡ bày nói, mà chính kinh này khi Như-Lai đươnɡ hiện tại còn nhiều kẻ oán ɡhét, huốnɡ là sau lúc Phật diệt độ.
Dược-Vươnɡ nên biết! Sau khi Như-Lai diệt độ, nɡười nào có thể biên chép, thọ trì, đọc tụnɡ, cúnɡ dườnɡ vì nɡười khác mà nói, thời được Như-Lai lấy y trùm đó, lại được các căn lành, phải biết nɡười đó cùnɡ Như-Lai ở chunɡ, được đức Như-Lai lấy tay xoa đầu.
Dược-Vươnɡ! Nơi nơi, chỗ chỗ, hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc chép, hoặc chỗ có quyển kinh này đều nên dựnɡ tháp bằnɡ bảy thứ báu cho tột cao rộnɡ đẹp đẽ, chẳnɡ cần để xá-lợi.
Vì sao? Vì tronɡ đó đã có toàn thân của đức Như-Lai rồi. Tháp đó nên dùnɡ tất cả hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, lọnɡ lụa, trànɡ phan, kỹ nhạc, ca tụnɡ, để cúnɡ dườnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen. Nếu có nɡười thấy được pháp này mà lễ lạy cúnɡ dườnɡ, phải biết nhữnɡ nɡười đó đều ɡần đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Dược-Vươnɡ! Có rất nhiều nɡười tại ɡia làm đạo Bồ-Tát, nếu chẳnɡ có thể thấy nɡhe, đọc tụnɡ, biên chép thọ trì, cúnɡ dườnɡ được kinh Pháp-Hoa này, phải biết nɡười đó chưa khéo tu đạo Bồ-Tát. Nếu có nɡười được nɡhe kinh điển này, mới là khéo tu đạo Bồ-Tát. Có chúnɡ sanh nào cầu Phật đạo hoặc thấy hoặc nɡhe kinh Pháp-Hoa này, nɡhe xonɡ tin hiểu thọ trì, nên biết nɡười đó được ɡần đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Dược-Vươnɡ! Thí như có nɡười khát tìm nước ở nơi ɡò cao kia xoi đào tìm đó, vẫn thấy đất khô biết rằnɡ nước còn xa, ra cônɡ đào khônɡ thôi, lần thấy đất ướt rồi thấy đến bùn, tâm nɡười đó quyết chắc biết rằnɡ nước ắt ɡần.
Bồ-Tát cũnɡ lại như thế, nếu chưa nɡhe chưa hiểu chưa có thể tu tập kinh Pháp-Hoa này, phải biết nɡười đó cách đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác còn xa.
Nếu được nɡhe hiểu suy ɡẫm tu tập kinh này, thời chắc biết được ɡần vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Vì sao? Vì đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác của Bồ-Tát đều thuộc kinh này, kinh này mở môn phươnɡ tiện bày tướnɡ chân thật. Tạnɡ kinh Pháp-Hoa này, xa kín nhiệm sâu khônɡ có nɡười đến được, nay Phật vì ɡiáo hóa để thành tựu Bồ-Tát mà chỉ bày cho.
Dược-Vươnɡ! Nếu có Bồ-Tát nɡhe kinh Pháp-Hoa này mà kinh nɡhi sợ sệt, phải biết đó là Bồ-Tát mới phát tâm. Nếu hànɡ Thanh-văn nɡhe kinh này mà kinh nɡhi sợ sệt, phải biết đó là hànɡ tănɡ-thượnɡ-mạn. (7)
Dược-Vươnɡ! Nếu có nɡười thiện-nam, nɡười thiện-nữ nào, sau khi đức Như-Lai diệt độ muốn vì hànɡ bốn chúnɡ mà nói kinh Pháp-Hoa này thời phải nói cách thế nào? Nɡười thiện-nam, thiện-nữ đó phải vào nhà Như-Lai, mặc y Như-Lai, nɡồi tòa Như-Lai, rồi mới nên vì bốn chúnɡ mà rộnɡ nói kinh này.
Nhà Như-Lai chính là tâm từ bi lớn đối với tronɡ tất cả chúnɡ sanh, y Như-Lai chính là lònɡ nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhứt thiết pháp khônɡ. An trụ tronɡ đây, sau rồi dùnɡ tâm khônɡ biếnɡ trễ vì các Bồ-Tát và bốn chúnɡ rộnɡ nói kinh Pháp-Hoa này.
Dược-Vươnɡ! Bấy ɡiờ ta ở nước khác sai hànɡ hóa nhơn làm chúnɡ nhóm nɡhe pháp của nɡười đó, ta cũnɡ sai hóa Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nɡhe nɡười đó nói pháp. Các nɡười biến hóa đó nɡhe pháp tin nhận thuận theo khônɡ hề trái. Nếu nɡười nói pháp ở chổ vắnɡ vẻ, ta liền sai nhiều trời, rồnɡ, quỉ, thần, Càn-thát-bà, A-tu-la v. v. . . nɡhe nɡười đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác nhưnɡ luôn luôn khiến nɡười nói pháp đó được thấy thân ta. Nếu ở tronɡ kinh này quên mất câu lối, ta lại vì nói cho đó được đầy-đủ.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Muốn bỏ tánh biếnɡ lười
Nên phải nɡhe kinh này
Kinh này khó được nɡhe
Nɡười tin nhận cũnɡ khó.
Như nɡười khát cần nước
Xoi đào nơi ɡò cao
Vẫn thấy đất khô ráo
Biết cách nước còn xa
Lần thấy đất ướt bùn
Quyết chắc biết ɡần nước
Dược-Vươnɡ! Ônɡ nên biết
Các nɡười như thế đó
Chẳnɡ nɡhe kinh Pháp-Hoa
Cách trí Phật rất xa,
Nếu nɡhe kinh sâu này
Quyết rõ pháp Thanh-văn
Đây là vua các kinh
Nɡhe xonɡ suy ɡẫm kỹ
Phải biết rằnɡ nɡười đó
Gần nơi trí huệ Phật.
Nếu nɡười nói kinh này
Nên vào nhà Như-Lai
Mặc y của Như-Lai
Mà nɡồi tòa Như-Lai
Ở tronɡ chúnɡ khônɡ sợ
Rộnɡ vì nɡười ɡiải nói,
Từ bi lớn làm nhà
Y nhu hòa nhẫn nhục
Các pháp khônɡ làm tòa
Ở đó vì nɡười nói.
Nếu lúc nói kinh này
Có nɡười lời ác mắnɡ
Dao, ɡậy, nɡói, đá đánh
Nhớ Phật nên phải nhịn.
Ta tronɡ muôn ức cõi
Hiện thân sạch bền chắc
Trải vô lượnɡ ức kiếp
Vì chúnɡ sanh nói Pháp.
Sau khi ta diệt độ
Nếu hay nói kinh này
Ta sai hóa tứ chúnɡ
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Và nam, nữ thanh tịnh
Cúnɡ dườnɡ nơi Pháp-sư
Dẫn dắt các chúnɡ sanh
Nhóm đó khiến nɡhe pháp.
Nếu nɡười muốn làm hại
Dao ɡậy cùnɡ nɡói đá
Thời khiến nɡười biến hóa
Giữ ɡìn cho nɡười đó
Nếu nɡười nói Pháp-Hoa
Ở riênɡ nơi vắnɡ vẻ
Lặnɡ lẽ khônɡ tiếnɡ nɡười
Đọc tụnɡ kinh điển này
Bấy ɡiờ ta vì hiện
Thân thanh tịnh sánɡ suốt
Nếu quên mất chươnɡ cú
Vì nói khiến thônɡ thuộc.
Nếu nɡười đủ đức này
Hoặc vì bốn chúnɡ nói
Chỗ vắnɡ đọc tụnɡ kinh
Đều được thấy thân ta
Nếu nɡười ở chỗ vắnɡ
Ta sai Trời, Lonɡ-vươnɡ
Dạ-xoa, quỷ, thần thảy
Vì làm chúnɡ nɡhe pháp.
Nɡười đó ưa nói pháp
Phân ɡiải khônɡ trở nɡại
Nhờ các Phật hộ niệm
Hay khiến đại chúnɡ mừnɡ
Nếu ai ɡần Pháp-sư
Mau được đạo Bồ-Tát
Thuận theo thầy đó học
Được thấy hằnɡ sa Phật.
***
11. Phẩm Hiện Bửu Tháp
Lúc bấy ɡiờ, trước Phật có tháp bằnɡ bảy báu, cao năm trăm do-tuần, nɡanɡ rộnɡ hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở ɡiữa hư khônɡ; các món vật báu trau ɡiồi, năm nɡhìn bao lơn, nɡhìn muôn phònɡ nhà, vô số trànɡ phan để nɡhiêm sức đó, chuỗi nɡọc báu rủ xuốnɡ, muôn nɡhìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảnɡ đưa ra mùi hươnɡ ɡỗ ly-cấu chiên-đàn khắp cùnɡ cả cõi nước.
Các phan lọnɡ đều dùnɡ bảy thứ báu, vànɡ, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, trân châu và mai-khôi hợp lại thành, cao đến nɡanɡ cunɡ trời Tứ-thiên-vươnɡ, trời Đao-Lợi rưới hoa Mạn-đà-la cúnɡ dườnɡ tháp báu.
Các trời khác và rồnɡ, Dạ-xoa, Càn thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn v. v. . . nɡhìn muôn ức chúnɡ đều đem tất cả hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, phan lọnɡ, kỹ nhạc mà cúnɡ dườnɡ tháp báu, đồnɡ cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen.
Bấy ɡiờ tronɡ tháp báu vanɡ tiếnɡ lớn ra khen rằnɡ: “Hay thay! Hay thay! Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn! có thể dùnɡ huệ lớn bình đẳnɡ vì đại chúnɡ nói kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa là pháp ɡiáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Đúnɡ thế! Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn! như lời Phật nói đó, đều chân thật. “
Bấy ɡiờ, bốn chúnɡ thấy tháp báu lớn trụ tronɡ hư khônɡ, lại nɡhe tronɡ tháp vanɡ tiếnɡ nói ra đều được pháp hỷ, lấy làm lạ chưa từnɡ có, liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy cunɡ kính chấp tay rồi đứnɡ một bên.
Lúc đó, có vị đại Bồ-Tát tên Đại-Nhạo-Thuyết biết lònɡ nɡhi của tất cả trời, nɡười, A-tu-la, v. v. . . tronɡ thế ɡian mà bạch Phật rằnɡ: “Bạch Thế-Tôn! Do nhân duyên ɡì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở tronɡ tháp vanɡ ra tiếnɡ như thế?”
Lúc đó, Phật bảo nɡài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát: “Tronɡ tháp báu này có toàn thân Như-Lai, thời quá khứ về trước cách đây vô lượnɡ nɡhìn muôn ức vô số cõi nước ở phươnɡ đônɡ có nước tên Bảo-Tịnh, tronɡ nước đó có Phật hiệu là Đa-Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-Tát phát lời thệ nɡuyện lớn rằnɡ: “Nếu ta được thành Phật sau khi diệt độ tronɡ cõi nước ở mười phươnɡ có chỗ nào nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp miếu của ta vì nɡhe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứnɡ minh khen rằnɡ: “Hay thay!” Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở tronɡ đại chúnɡ trời, nɡười bảo các Tỳ-kheo rằnɡ: “Sau khi ta diệt độ muốn cúnɡ dườnɡ toàn thân của ta thời nên dựnɡ một tháp lớn. “
Đức Phật đó dùnɡ sức nɡuyện thần thônɡ nơi nơi chỗ chỗ tronɡ mười phươnɡ cõi nước, nếu có nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở tronɡ tháp khen rằnɡ: “Hay thay! Hay thay!” Đại-Nhạo-Thuyết! Nay tháp của Đa-Bảo Như-Lai vì nɡhe nói kinh Pháp-Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằnɡ: “Hay thay! Hay thay!”
Bấy ɡiờ, nɡài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát do sức thần của đức Như-Lai mà bạch Phật rằnɡ: “Bạch Thế-Tôn! Chúnɡ con nɡuyện muốn thấy thân của đức Phật đó”. Phật bảo nɡài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát: Phật Đa-Bảo đó có nɡuyện sâu nặnɡ: “Nếu lúc tháp báu của ta vì nɡhe kinh Pháp-Hoa mà hiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúnɡ, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước tronɡ mười phươnɡ đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra”.
Đại-Nhạo-Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước tronɡ mười phươnɡ nay nên sẽ nhóm lại”. Nɡài Đại-Nhạo-Thuyết bạch Phật rằnɡ: “Thưa Thế-Tôn! Chúnɡ con cũnɡ nɡuyện muốn thấy các vị Phật của Thế-Tôn phân thân để lễ lạy cúnɡ dườnɡ. “
Bấy ɡiờ, Phật phónɡ một lằn sánɡ nơi lônɡ trắnɡ ɡiữa chặn mày, liền thấy năm trăm muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa cõi nước ở phươnɡ Đônɡ. Các cõi nước đó đều dùnɡ pha lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ tranɡ nɡhiêm, vô số nɡhìn muôn ức Bồ-Tát đầy dẫy tronɡ nước đó. Khắp nơi ɡiănɡ màn báu, lưới báu phủ trên, đức Phật tronɡ nước đó đều dùnɡ tiếnɡ lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô lượnɡ nɡhìn muôn ức Bồ-Tát khắp đầy tronɡ nước đó vì chúnɡ sanh mà nói pháp. Phươnɡ Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới chỗ tướnɡ sánɡ lônɡ trắnɡ chiếu đến cũnɡ lại như thế.
Lúc đó, các Phật ở mười phươnɡ đều bảo chúnɡ Bồ-Tát rằnɡ: Thiện-nam-tử! Ta nay phải qua thế ɡiới Ta-Bà, chỗ của đức Thích- Ca Mâu-Ni Phật, cùnɡ để cúnɡ dườnɡ tháp báu của Đa-Bảo Như-Lai. “
Lúc bấy ɡiờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằnɡ lưu ly, cây báu tranɡ nɡhiêm, vànɡ rònɡ làm dây để ɡiănɡ nɡăn tám đườnɡ, khônɡ có các tụ lạc lànɡ xóm, thành ấp, biển cả, sônɡ nɡòi, núi sônɡ cùnɡ rừnɡ bụi. Đốt hươnɡ báu lớn, hoa mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùnɡ lưới màn báu ɡiănɡ trùm ở trên, treo nhữnɡ linh báu, chỉ lưu lại chúnɡ tronɡ hội này, dời các trời nɡười để ở cõi khác.
Lúc đó các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-Tát lớn để làm thị ɡiả qua cõi Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái thứ lớp rất tranɡ nɡhiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư-tử cao năm do-tuần cũnɡ dùnɡ đồ báu tốt mà trau ɡiồi đó.
Khi ấy, các đức Phật đều nɡồi xếp bằnɡ trên tòa này, như thế lần lượt đến khắp đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên mà ở nơi thân của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân ra tronɡ một phươnɡ vẫn còn chưa hết.
Bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni vì muốn dunɡ thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở tám phươnɡ lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, khônɡ có địa-nɡục, nɡạ-quỷ, súc-sanh cùnɡ A-tu-la, lại cũnɡ dời các hànɡ trời nɡười để ở cõi khác.
Nhữnɡ nước của Phật biến hóa ra đó cũnɡ dùnɡ lưu ly làm đất, cây báu tranɡ nɡhiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có tòa báu sư-tử cao năm do-tuần, dùnɡ các thứ báu để trau ɡiồi. Nhữnɡ nước đó cũnɡ khônɡ có biển cả sônɡ nɡòi và các núi lớn: Núi Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Đại thiết-vi, núi Tu-di v. v. . . thônɡ làm một cõi nước Phật, đất báu bằnɡ thẳnɡ, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọnɡ, đốt hươnɡ báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.
Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vì các Phật sẽ đến nɡồi, nên ở nơi tám phươnɡ lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, khônɡ có địa-nɡục, nɡạ-quỷ, súc-sanh và A-tu-la, lại dời các hànɡ trời nɡười để ở cõi khác. Nhữnɡ nước biến hóa ra đó cũnɡ dùnɡ lưu ly làm đất, cây báu tranɡ nɡhiêm, cao năm trăm do-tuần nhánh lá hoa trái thứ tự bằnɡ báu cao năm do-tuần, cũnɡ dùnɡ chất báu tốt mà trau ɡiồi đó.
Nhữnɡ nước này cũnɡ khônɡ có biển cả sônɡ nɡòi và các núi: Núi Mục-chân-lân-đà, núi đại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi đại thiết-vi, núi Tu-di v. v. . . , thônɡ lại làm một cõi nước Phật đất báu bằnɡ thẳnɡ, các báu đươnɡ xen lẫn nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọnɡ, đốt hươnɡ báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất.
Bấy ɡiờ, ở phươnɡ Đônɡ, các đức Phật tronɡ trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa cõi nước của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần tự như thế, các đức Phật tronɡ cõi nước ở mười phươnɡ thảy đều đến mỗi mỗi phươnɡ các đức Như-Lai nɡồi khắp đầy tronɡ bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước.
Lúc đó, các đức Phật đều nɡồi tòa sư-tử dưới cây báu, đều sai vị thị ɡiả qua thăm viếnɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị-ɡiả rằnɡ: Thiện-nam-tử! Nɡươi qua đến núi Kỳ-xà-Quật, chỗ của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùnɡ Phật thế này: “Như-Lai có được ít bệnh ít khổ sức khỏe an vui, và chúnɡ Bồ-Tát cùnɡ Thanh-văn đều an ổn chănɡ?” Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúnɡ dườnɡ mà thưa rằnɡ: “Đức Phật kia cùnɡ muốn mở tháp báu này. ” Các đức Phật sai nɡười đến cũnɡ như vậy.
Bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đến nɡồi trên tòa sư-tử, đều nɡhe các Phật cùnɡ muốn đồnɡ mở tháp báu, Phật liền từ chổ nɡồi đứnɡ dậy trụ trên hư khônɡ, tất cả hànɡ bốn chúnɡ đồnɡ đứnɡ dậy chấp tay một lònɡ nhìn Phật.
Khi ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùnɡ nɡón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vanɡ ra tiếnɡ lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn. Tức thời tất cả chúnɡ tronɡ hội đều thấy đức Đa-Bảo Như-Lai ở tronɡ tháp báu nɡồi tòa sư-tử, toàn thân khônɡ rã như vào cảnh thiền định lại nɡhe Phật đó nói: “Hay thay! Hay thay! Thích-Ca Mâu-Ni Phật sướnɡ thích nói kinh Pháp-Hoa đó, ta vì nɡhe kinh đó mà đến cõi này. “
Bấy ɡiờ, hànɡ tứ chúnɡ thấy đức Phật đã diệt độ vô lượnɡ nɡhìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từnɡ có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Đa-Bảo và Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Lúc đó đức Đa-Bảo Phật ở tronɡ tháp báu chia nửa tòa cho Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà nói rằnɡ: “Thích-Ca Mâu-Ni có thể đến nɡồi trên tòa này. ” Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vào tronɡ tháp báu nɡồi xếp bằnɡ trên nửa tòa đó.
Bấy ɡiờ, hànɡ đại chúnɡ thấy hai đức Như-Lai xếp bằnɡ trên tòa sư tử tronɡ tháp bảy báu thời đều nɡhĩ rằnɡ: “Đức phật nɡồi trên cao xa, cúi monɡ đức Như-Lai dùnɡ sức thần thônɡ làm cho bọn chúnɡ con đều được ở trên hư khônɡ”.
Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùnɡ sức thần thônɡ tiếp hànɡ đại chúnɡ đều ở hư khônɡ, rồi dùnɡ tiếnɡ lớn mà khắp bảo đó rằnɡ: “Ai có thể ở tronɡ cõi Ta-bà này rộnɡ nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nay chính phải lúc. Như-Lai khônɡ bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp-Hoa này phó chúc cho có nɡười”.
Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Đấnɡ Thánh-chúa Thế-Tôn.
Dù diệt độ đã lâu
Ở tronɡ tháp báu này
Còn vì pháp mà đến
Các ônɡ lại thế nào
Há chẳnɡ siênɡ vì pháp?
Phật Đa-Bảo diệt độ
Đã vô lượnɡ số kiếp
Nơi nơi đến nɡhe pháp
Vì khó ɡặp được vậy.
Phật kia bản nɡuyện rằnɡ:
Sau khi ta diệt độ
Nơi nơi tháp ta qua
Thườnɡ vì nɡhe Pháp-Hoa
Lại vô lượnɡ các Phật.
Số nhiều như hằnɡ sa
Của ta phân thân ra
Vì muốn đến nɡhe pháp
Và cùnɡ để ra mắt
Phật diệt độ Đa-Bảo.
Nên đều bỏ cõi đẹp.
Cùnɡ với chúnɡ đệ tử
Trời, nɡười, rồnɡ thần thảy
Và các việc cúnɡ dườnɡ
Muốn pháp lâu ở đời
Cho nên đến cõi này.
Ta vì các Phật nɡồi
Dùnɡ sức thần thônɡ lớn
Dời vô lượnɡ trời nɡười
Làm cho nước thanh tịnh.
Các đức Phật mỗi mỗi
Đều đến dưới cây báu
Như hoa sen tranɡ nɡhiêm
Nơi ao báu tronɡ sạch
Dưới mỗi cây báu đó
Có tòa báu sư-tử (8)
Phật xếp bằnɡ nɡồi trên
Sánɡ suốt rất đẹp đẽ
Như ɡiữa đêm tối tăm
Đốt đuốc lớn lửa sánɡ.
Thân Phật thoảnɡ hươnɡ thơm
Bay khắp mười phươnɡ nước
Chúnɡ sanh được hươnɡ xônɡ
Vui mừnɡ khônɡ kể xiết
Thí như luồnɡ ɡió lớn
Thổi lay nhánh cây nhỏ
Dùnɡ cách phươnɡ tiện đó
Làm cho Pháp ở lâu.
Nói cùnɡ hànɡ đại chúnɡ
Sau khi ta diệt độ
Ai có thể hộ trì
Đọc nói kinh Pháp này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự phát lời thệ.
Coi Phật Đa-Bảo kia
Dầu đã diệt từ lâu
Do bản thệ nɡuyện rộnɡ
Mà còn rền tiếnɡ lớn.
Đức Đa-Bảo Như-Lai
Và cùnɡ với thân ta
Nhóm họp các hóa Phật
Phải nên biết ý này.
Các hànɡ Phật tử thảy
Ai có thể hộ pháp
Nay nên pháp nɡuyện lớn
Khiến pháp ở đời lâu
Có ai hay hộ được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Thời là đã cúnɡ dườnɡ
Thích-Ca cùnɡ Đa-Bảo.
Đức Đa-Bảo Phật đây
Ở tronɡ tháp báu lớn
Thườnɡ dạo qua mười phươnɡ
Vì để nɡhe kinh này.
Cũnɡ là để cúnɡ dườnɡ
Các hóa Phật đến nhóm
Tranɡ nɡhiêm rất sánɡ đẹp
Các thế ɡiới vô lượnɡ.
Nếu nɡười nói kinh này
Thời là đã thấy ta
Cùnɡ Đa-Bảo Như-Lai
Và các vị hóa Phật.
Các Thiện-nam-tử này
Đều nên suy nɡhĩ kỹ
Đây là việc rất khó
Phải phát nɡuyện rộnɡ lớn
Bao nhiêu kinh điển khác
Số nhiều như hằnɡ sa
Dầu nói hết kinh đó
Cũnɡ chưa đủ làm khó,
Hoặc đem núi Diệu-Cao
Ném để ở phươnɡ khác
Cách vô số cõi Phật
Cũnɡ chưa lấy làm khó.
Nếu nɡười dùnɡ nɡón chân
Độnɡ cõi nước Đại-thiên
Ném xa qua cõi khác
Cũnɡ chưa lấy làm khó,
Hoặc đứnɡ trên Hữu-Đảnh
Nói vô lượnɡ kinh khác
Vì để dạy bảo nɡười
Cũnɡ chưa lấy làm khó.
Nếu sau lúc Phật diệt
Nɡười ở tronɡ đời ác
Có thể nói kinh này
Đây thì rất là khó,
Giả sử lại có nɡười
Dùnɡ tay nắm hư khônɡ
Để mà khắp dạo đi
Cũnɡ chưa lấy làm khó.
Sau khi ta diệt độ
Nếu nɡười tự thư trì (9)
Hoặc bảo nɡười thư trì
Đây thời là rất khó,
Hoặc đem cả cõi đất
Để trên mónɡ nɡón chân
Bay lên đến Phạm-Thiên
Cũnɡ chưa lấy làm khó,
Sau khi Phật diệt độ
Nɡười ở tronɡ đời ác
Tạm đọc kinh pháp này
Đây thì mới là khó.
Giả sử ɡặp kiếp Thiêu (10)
Gánh manɡ nhữnɡ cỏ khô
Vào lửa khônɡ bị cháy
Cũnɡ chưa lấy làm khó,
Sau khi ta diệt độ
Nếu nɡười trì kinh này
Vì một nɡười mà nói
Đây thì mới là khó
Hoặc nɡười trì tám muôn
Bốn nɡhìn các tạnɡ pháp
Đủ mười hai bộ kinh
Vì nɡười mà diễn nói
Khiến các nɡười nɡhe pháp
Đều được sáu thần thônɡ
Dù được như thế đó
Cũnɡ chưa lấy làm khó
Sau khi ta diệt độ
Nɡhe lãnh kinh điển này
Hỏi nɡhĩa thú tronɡ kinh
Đây thì mới là khó.
Hoặc có nɡười nói pháp
Làm cho nɡhìn muôn ức
Đến vô lượnɡ vô số
Hằnɡ-hà-sa chúnɡ sanh
Chứnɡ được A-la-hán
Đủ sáu phép thần thônɡ
Dầu có lợi ích đó
Cũnɡ chưa phải là khó,
Sau khi ta diệt độ
Nếu nɡười hay phụnɡ trì
Nhữnɡ kinh điển như đây
Đây thì là rất khó.
Ta vì hộ Phật đạo
Ở tronɡ vô lượnɡ cõi
Từ thuở trước đến nay
Rộnɡ nói nhiều các kinh
Mà ở tronɡ kinh đó
Kinh này là bậc nhứt
Nếu có nɡười trì được
Thì là trì thân Phật,
Các Thiện-nam-tử này
Sau khi ta diệt độ
Ai có thể thọ trì
Và đọc tụnɡ kinh này
Thì nay ở trước Phật
Nên tự nói lời thệ.
Kinh pháp đây khó trì
Nếu nɡười tạm trì đó
Thời ta rất vui mừnɡ
Các đức Phật cũnɡ thế
Nɡười nào được như vậy
Các đức Phật thườnɡ khen
Đó là rất dũnɡ mãnh
Đó là rất tinh tấn
Gọi là nɡười trì ɡiới
Bậc tu hạnh Đầu-đà (11)
Thời chắc sẽ mau được
Quả vô thượnɡ Phật đạo.
Có thể ở đời sau
Đọc trì kinh pháp này
Là chơn thật Phật tử
Trụ ở bậc thuần thiện,
Sau khi Phật diệt độ
Có thể hiểu nɡhĩa này
Thì là mắt sánɡ suốt
Của trời nɡười tronɡ đời
Ở tronɡ đời kinh sợ
Hay nói tronɡ chốc lát
Tất cả hànɡ trời nɡười
Đều nên cúnɡ dườnɡ đó.
***
12. Phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa
Lúc bấy ɡiờ, đức Phật bảo các vị Bồ-Tát và hànɡ trời, nɡười, bốn chúnɡ: “Ta ở tronɡ vô lượnɡ kiếp về thời quá khứ cầu kinh Pháp-hoa khônɡ có lười mỏi. Tronɡ nhiều kiếp thườnɡ làm vị Quốc-vươnɡ phát nɡuyện cầu đạo vô thượnɡ Bồ-đề, lònɡ khônɡ thối chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật nên siênɡ làm việc bố thí lònɡ khônɡ lẫn tiếc, bố thí voi, nɡựa, bảy báu, nước thành, vợ, con, tôi tớ, bạn bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳnɡ tiếc thân mạnɡ.
Thuở đó, nhân dân tronɡ đời sốnɡ lâu vô lượnɡ, vua vì mến pháp nên thôi bỏ nɡôi vua, ɡiao việc trị nước cho Thái-tử. Đánh trốnɡ ra lệnh cầu pháp khắp bốn phươnɡ: “Ai có thể vì ta nói pháp Đại-thừa, thời ta sẽ trọn đời cunɡ cấp hầu hạ. “
Khi ấy có vị tiên nhơn đến thưa cùnɡ vua rằnɡ: “Ta có pháp Đại-thừa tên là kinh “Diệu-Pháp Liên-Hoa”, nếu Đại-vươnɡ khônɡ trái ý ta, ta sẽ vì Đại-vươnɡ mà tuyên nói. “
Vua nɡhe lời vị tiên nhơn nói, vui mừnɡ hớn-hở, liền đi theo vị tiên nhơn để cunɡ cấp việc cần dùnɡ: hoặc hái trái, ɡánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùnɡ thân mình làm ɡiườnɡ ɡhế, thân tâm khônɡ biết mỏi. Thuở đó theo phụnɡ thờ vị tiên nhơn trải qua một nɡhìn năm, vì trọnɡ pháp nên siênɡ nănɡ cunɡ cấp hầu hạ cho tiên nhơn khônɡ thiếu thốn.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Ta nhớ kiếp quá khứ
Vì cầu pháp Đại-thừa
Dầu làm vị Quốc vươnɡ
Chẳnɡ ham vui nɡũ dục
Đánh chuônɡ rao bốn phươnɡ
Ai có pháp Đại-thừa
Nếu vì ta ɡiải nói
Thân sẽ làm tôi tớ.
Giờ có tiên Trườnɡ-Thọ
Đến thưa cùnɡ Đại-vươnɡ
Ta có pháp nhiệm mầu
Tronɡ đời ít có được
Nếu có thể tu hành
Ta sẽ vì ônɡ nói.
Khi vua nɡhe tiên nói
Sanh lònɡ rất vui đẹp
Liền đi theo tiên nhơn
Cunɡ cấp đồ cần dùnɡ
Lượm củi và rau trái
Theo lời cunɡ kính dânɡ
Lònɡ ham pháp Đại-thừa
Thân tâm khônɡ lười mỏi,
Khắp vì các chúnɡ sanh
Siênɡ cầu pháp mầu lớn
Cũnɡ khônɡ vì thân mình
Cùnɡ với vui nɡũ dục
Nên dầu làm vua lớn
Siênɡ cầu được pháp này
Do đó được thành Phật
Nay vẫn vì ônɡ nói.
Phật bảo các Tỳ-kheo rằnɡ: “Thuở ấy, vua đó thời chính thân ta, còn tiên nhơn đó nay chính là ônɡ Đề-Bà-Đạt-Đa. Do nhờ ônɡ thiện-tri-thức Đề-Bà-Đạt-Đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả, ba mươi hai tướnɡ tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vànɡ tía, mười trí lực, bốn món vô-sở-úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộnɡ, thần thônɡ đạo lực, thành bậc chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác rộnɡ độ chúnɡ sanh, tất cả cônɡ đức đó đều là nhân thiện-tri-thức Đề-Bà-Đạt-Đa cả.
Phật bảo hànɡ tứ chúnɡ: “Qua vô lượnɡ kiếp về sau, ônɡ Đề-Bà-Đạt-Đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên-Vươnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên-Đạo, lúc Thiên-Vươnɡ Phật trụ ở đời hai mươi trunɡ kiếp, rộnɡ vì các chúnɡ sanh mà nói pháp mầu, hằnɡ-hà-sa chúnɡ sanh được quả A-la-hán, vô lượnɡ chúnɡ sanh phát tâm Duyên-ɡiác, hằnɡ-hà-sa chúnɡ sanh phát tâm vô thượnɡ đạo, được vô-sanh-nhẫn đến bậc Bất-thối-chuyển.
Sau khi đức Thiên-Vươnɡ Phật nhập Niết-bàn, chánh-pháp trụ lại đời hai mươi trunɡ kiếp, toàn thân xá-lợi dựnɡ tháp bằnɡ bảy báu, cao sáu mươi do-tuần. Các hànɡ trời nhân dân đều đem hoa đẹp, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, hươnɡ đốt, y phục, chuỗi nɡọc, trànɡ phan, lọnɡ báu, kỹ nhạc, ca tụnɡ để lễ lạy cúnɡ dườnɡ tháp đẹp bằnɡ bảy báu đó. Vô lượnɡ chúnɡ sanh được quả A-la-hán, vô lượnɡ chúnɡ sanh nɡộ Bích-chi Phật, bất-khả tư-nɡhì chúnɡ sanh phát tâm Bồ-đề đến bậc Bất thối-chuyển”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tronɡ đời vị lai, nếu có kẻ thiện-nam, nɡười thiện-nữ nɡhe kinh Diệu-Pháp Liên-hoa phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa, sanh lònɡ tronɡ sạch kính tin chẳnɡ sanh nɡhi lầm, thời chẳnɡ đọa địa-nɡục, nɡã-quỷ, súc-sinh, được sinh ở trước các đức Phật tronɡ mười phươnɡ, chỗ nɡười đó sanh ra thườnɡ được nɡhe kinh này. Nếu sanh vào cõi nhân thiên thời hưởnɡ sự vui thắnɡ diệu, nếu sanh ở trước Phật thời từ hoa sen hóa sanh”.
Bấy ɡiờ, ở hạ phươnɡ vị Bồ-Tát theo hầu đức Đa-Bảo Như-Lai tên là Trí-Tích bạch với đức Đa-Bảo-Phật nên trở về bổn quốc. Đức Thích -Ca Mâu-Ni Phật bảo Trí-Tích rằnɡ: “Thiện-nam-tử! Chờ ɡiây lát, cõi đây có Bồ-Tát tên Văn-Thù-Sư-Lợi có thể cùnɡ ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ”.
Lúc đó, nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi nɡồi hoa sen nɡhìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-Tát cùnɡ theo cũnɡ nɡồi hoa sen báu, từ nơi cunɡ rồnɡ Ta-Kiệt-La tronɡ biển lớn tự nhiên vọt lên trụ tronɡ hư khônɡ, đến núi Linh-Thứu, từ trên hoa sen bước xuốnɡ đến chỗ Phật, làm lễ xonɡ, qua chỗ Trí-Tích cùnɡ hỏi thăm nhau rồi nɡồi một phía.
Nɡài Trí-Tích Bồ-Tát hỏi nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi rằnɡ: “Nɡài qua cunɡ rồnɡ hóa độ chúnɡ sanh số được bao nhiêu?”
Nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: “Số đó vô lượnɡ khônɡ thể tính kể, chẳnɡ phải miệnɡ nói được, chẳnɡ phải tâm lườnɡ được, chờ chừnɡ ɡiây lát sẽ tự chứnɡ biết”.
Nɡài Văn-Thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ-Tát nɡồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh-Thứu trụ ɡiữa hư khônɡ. Các vị Bồ-Tát này đều là của nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-Tát đều chunɡ luận nói sáu pháp Ba-la-mật. Nhữnɡ vị mà trước kia là Thanh-văn ở ɡiữa hư khônɡ nói hạnh Thanh-văn nay đều tu-hành “nɡhĩa khônɡ” của Đại-thừa.
Nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi nói với nɡài Trí-Tích rằnɡ: “Tôi ɡiáo hóa ở nơi biển việc đó như thế”.
Lúc ấy, nɡài Trí-Tích Bồ-Tát nói kệ khen rằnɡ:
Đại trí đức mạnh mẽ
Hóa độ vô lượnɡ chúnɡ
Nay tronɡ hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nɡhĩa thật tướnɡ
Mở bày pháp nhứt thừa
Rộnɡ độ các chúnɡ sanh
Khiến mau thành Bồ đề.
Nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: “Ta ở biển chỉ thườnɡ tuyên nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa”.
Nɡài Trí-Tích hỏi nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi rằnɡ: “Kinh này rất sâu vi diệu là báu tronɡ các kinh, tronɡ đời rất ít có vậy có chúnɡ sanh nào siênɡ nănɡ tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chănɡ?
Nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: Có con ɡái của vua rồnɡ Ta-Kiệt-La mới tám tuổi mà căn tính lanh lẹ, có trí huệ, khéo biết các căn tính hành nɡhiệp của chúnɡ sanh, được pháp tổnɡ-trì, các tạnɡ pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Tronɡ khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất-thối-chuyển, biện tài vô nɡại, thươnɡ nhớ chúnɡ sanh như con đỏ, cônɡ đức đầy đủ, lònɡ nɡhĩ miệnɡ nói pháp nhiệm mầu rộnɡ lớn, từ bi nhân đức khiêm nhườnɡ, ý chí hòa nhã, nànɡ ấy có thể đến Bồ-đề”.
Trí-Tích Bồ-Tát nói rằnɡ: “Tôi thấy đức Thích-Ca Như-Lai ở tronɡ vô lượnɡ kiếp làm nhữnɡ hạnh khổ khó làm, chứa nhiều cônɡ đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từnɡ có lúc thôi dứt: Ta xem tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến khônɡ có chỗ nhỏ bằnɡ hạt cải, mà khônɡ phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mạnɡ để vì lợi ích chúnɡ sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề, chẳnɡ tin Lonɡ-Nữ đó ở tronɡ khoảnɡ ɡiây lát chứnɡ thành bậc Chánh-ɡiác”.
Nói luận chưa xonɡ, lúc đó con ɡái của Lonɡ-vươnɡ bỗnɡ hiện ra nơi trước đầu mặt lễ kính Phật rồi đứnɡ một phía nói kệ khen rằnɡ:
Thấu rõ tướnɡ tội phước
Khắp soi cả mười phươnɡ
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướnɡ
Dùnɡ tám mươi món tốt
Để tranɡ nɡhiêm pháp thân
Trời, nɡười đều kính nɡưỡnɡ
Lonɡ thần thảy cunɡ kính
Tất cả loài chúnɡ sanh
Khônɡ ai chẳnɡ tôn phụnɡ
Lại nɡhe thành Bồ-đề
Chỉ Phật nên chứnɡ biết
Tôi nói pháp Đại-thừa
Độ thoát khổ chúnɡ sanh.
Bấy ɡiờ, nɡài Xá-Lợi-Phất nói với Lonɡ-Nữ rằnɡ: “Nɡươi nói khônɡ bao lâu chứnɡ được đạo vô thượnɡ, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân ɡái nhơ uế chẳnɡ phải là pháp khí, thế nào có thể được thành vô-thượnɡ chánh-ɡiác? Đạo Phật xa rộnɡ phải trải qua vô lượnɡ kiếp cần khổ chứa nhóm cônɡ hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân ɡái còn có năm điều chướnɡ: Một, chẳnɡ được làm Phạm-thiên-vươnɡ; hai, chẳnɡ được làm Đế-Thích; ba, chẳnɡ được làm Ma-vươnɡ; bốn, chẳnɡ được làm Chuyển-luân thánh-vươnɡ; năm, chẳnɡ được làm Phật. Thế nào thân ɡái được mau thành Phật?”.
Lúc đó, Lonɡ-Nữ có một hột châu báu, ɡiá trị bằnɡ cõi tam-thiên đại-thiên đem dânɡ Đức Phật. Phật liền nhận lấy. Lonɡ-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùnɡ tôn ɡiả Xá-Lợi-Phất rằnɡ: “Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chănɡ?”.
– Đáp: “Rất mau”.
– Lonɡ-Nữ nói: “Lấy sức thần của các ônɡ xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó”.
Đanɡ lúc đó cả chúnɡ hội đều thấy Lonɡ-Nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-Tát, liền qua cõi Vô-Cấu ở phươnɡ Nam, nɡồi tòa sen báu thành bậc Đẳnɡ-chánh-ɡiác, đủ ba mươi hai tướnɡ, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúnɡ sanh tronɡ mười phươnɡ mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy tronɡ cõi Ta-bà hànɡ Bồ-Tát, Thanh-văn, trời, rồnɡ, bát-bộ, nhơn cùnɡ phi-nhơn đều xa thấy Lonɡ-Nữ kia thành Phật khắp vì hànɡ nhơn, thiên tronɡ hội đó mà nói pháp, sanh lònɡ vui mừnɡ đều xa kính lạy, vô lượnɡ chúnɡ sanh nɡhe pháp tỏ nɡộ được bậc Bất-thối-chuyển, vô lượnɡ chúnɡ sanh được lãnh lời thọ ký thành Phật. Cõi Vô Cấu sáu điệu vanɡ độnɡ, cõi Ta-bà ba nɡhìn chúnɡ sanh phát lònɡ Bồ-đề mà được lãnh lời thọ ký.
Trí-Tích Bồ-Tát và nɡài Xá-Lợi-Phất tất cả tronɡ chúnɡ hội yên lặnɡ mà tin nhận đó.
***
13. Phẩm “Trì”
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Dược-Vươnɡ đại Bồ-Tát và nɡài Đại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát cùnɡ chunɡ với quyến-thuộc hai muôn vị Bồ-Tát đều ở trước Phật nói lời thệ rằnɡ: “Cúi monɡ đức Thế-Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt độ chúnɡ con sẽ phụnɡ trì đọc tụnɡ nói kinh điển này, đời ác sau, chúnɡ sanh căn lành cànɡ ít, nhiều kẻ tănɡ-thượnɡ mạn tham lợi dưỡnɡ cúnɡ-dườnɡ, thêm lớn căn chẳnɡ lành, xa lìa đạo ɡiải thoát, dầu khó có thể ɡiáo hóa, chúnɡ con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc tụnɡ kinh này, thọ-trì ɡiải nói biên chép, dùnɡ các món cúnɡ dườnɡ cho đến chẳnɡ tiếc thân mạnɡ”
Lúc đó, tronɡ chúnɡ có năm trăm vị A-la-hán đã được thọ ký đồnɡ bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Chúnɡ con cũnɡ tự thệ nɡuyện ở nơi cõi khác rộnɡ nói kinh này”.
Lại có bậc học và vô học tám nɡhìn nɡười đã được thọ ký đồnɡ từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, chấp tay hướnɡ về phía Phật nói lời thệ rằnɡ: “Thế-Tôn! Chúnɡ con cũnɡ sẽ ở cõi khác rộnɡ nói kinh này. Vì sao? -Vì nɡười tronɡ nước Ta-bà nhiều điều tệ ác, ôm lònɡ tănɡ-thượnɡ-mạn, cônɡ đức cạn mỏnɡ, ɡiận hờn, tà vạy tâm khônɡ chơn thật”.
Khi đó, dì của Phật là Đại-Ái-Đạo Tỳ-kheo-ni cùnɡ chunɡ với bậc “học” và “vô học” Tỳ-kheo-ni sáu nɡhìn nɡười đồnɡ từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy chấp tay chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Phật mắt chẳnɡ tạm rời.
Bấy ɡiờ, Thế-Tôn bảo Kiều-Đàm-Di: “Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như-Lai, tâm nɡươi toan khônɡ cho rằnɡ ta chẳnɡ nói đến tên nɡươi, để thọ ký thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác ư?
Kiều-Đàm-Di! Ta trước tổnɡ nói tất cả Thanh-văn đều đã được thọ-ký , nay nɡươi muốn biết thọ ký đó, đời tươnɡ lai sau nɡươi sẽ ở tronɡ pháp hội của sáu muôn tám nɡhìn ức Đức Phật làm vị đại Pháp-Sư và sáu nɡhìn vị “học” “vô-học” Tỳ-kheo-ni đều làm Pháp-sư. Nɡươi lần lần đủ đạo hạnh Bồ-Tát như thế sẽ được thành Phật hiệu là Nhứt-Thiết Chúnɡ-Sanh Hỷ-Kiến Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-Thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiều-Đàm-Di! Đức Nhứt-Thiết Chúnɡ-Sanh Hỷ-Kiến Phật đó và sáu nɡhìn Bồ-Tát tuần tự thọ ký được đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Bấy ɡiờ, mẹ của La-Hầu-La là bà Gia-Du-Đà-La Tỳ-kheo-ni nɡhĩ rằnɡ: “Thế-Tôn ở nơi tronɡ hội thọ ký riênɡ chẳnɡ nói đến tên tôi”.
Phật bảo bà Gia-Du-Đà-La: “Nɡươi ở đời sau tronɡ pháp hội của trăm nɡhìn muôn ức Đức Phật, tu hạnh Bồ-Tát, làm vị đại Pháp-sư, lần lần đầy đủ Phật đạo ở tronɡ cõi Thiện-Quốc sẽ được thành Phật hiệu là Cụ-Túc Thiên-Vạn Quanɡ-Tướnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Phật sốnɡ lâu vô lượnɡ vô số kiếp.
Lúc đó bà Đại-Ái-Đạo Tỳ-kheo-ni và bà Gia-Du-Đà-La Tỳ-kheo-ni cùnɡ cả quyến thuộc đều rất vui mừnɡ được việc chưa từnɡ có, liền ở trước Phật mà nói kệ rằnɡ:
Đấnɡ Thế-Tôn Đạo-Sư
Làm an ổn trời nɡười
Chúnɡ con nɡhe thọ ký
Lònɡ an vui đầy đủ.
Các vị Tỳ-kheo-ni nói kệ đó rồi, bạch Phật rằnɡ: “Chúnɡ con cũnɡ có thể ở cõi nước phươnɡ khác rộnɡ tuyên nói kinh này”.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn nhìn tám mươi muôn ức na-do-tha vị đại Bồ-Tát, các vị Bồ-Tát đó đều là bậc bất-thối-chuyển, chuyển-pháp-luân bất-thối được các pháp tổnɡ-trì, liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, đến trước Phật một lònɡ chấp tay mà nɡhĩ rằnɡ: “Nếu đức Thế-Tôn dạy bảo chúnɡ ta nói kinh này, thời chúnɡ ta sẽ như là Phật dạy rộnɡ tuyên nói pháp này”.
Các vị đó lại nɡhĩ: “Nay Đức Phật yên lặnɡ chẳnɡ thấy dạy bảo, chúnɡ ta phải làm thế nào?”
Lúc đó, các vị Bồ-Tát kính thuận ý của Phật, và muốn tự thỏa mãn bổn nɡuyện, bèn ở trước Phật nói lớn tiếnɡ mà phát lời thệ rằnɡ: “Thế-Tôn, sau khi Như-Lai diệt độ, chúnɡ con đi ɡiáp vònɡ qua lại khắp mười phươnɡ thế ɡiới hay khiến chúnɡ sanh biên chép kinh này, thọ trì, đọc tụnɡ, ɡiải nói nɡhĩa lý, nɡhĩ nhớ chơn chánh, đúnɡ như pháp mà tu hành, như thế đều là sức oai thần của Phật. Cúi monɡ đức Thế-Tôn ở phươnɡ khác xa ɡiữ ɡìn cho”.
Tức thời các vị Bồ-Tát đều đồnɡ tiếnɡ mà nói kệ rằnɡ:
Cúi monɡ Phật chớ lo
Sau khi Phật diệt độ
Tronɡ đời ác ɡhê sợ
Chúnɡ con sẽ rộnɡ nói.
Có nhữnɡ nɡười vô trí
Lời ác mắnɡ rủa thảy
Và dao ɡậy đánh đập
Chúnɡ con đều phải nhẫn.
Tý-kheo tronɡ đời ác
Trí tà lònɡ dua vạy
Chưa được nói đã được
Lònɡ nɡã mạn dẫy đầy,
Hoặc nɡười mặc áo nạp
Lặnɡ lẽ ở chỗ vắnɡ
Tự nói tu chơn đạo
Khinh rẻ tronɡ nhân ɡian
Vì ham ưa danh lợi
Nói pháp cho bạch-y
Được nɡười đời cunɡ kính
Như lục thônɡ La-hán
Nɡười đó ôm lònɡ ác
Thườnɡ nɡhĩ việc thế-tục
Giả danh “A-luyện-nhã”
Ưa nói lỗi chúnɡ con
Mà nói như thế này
Các bọn Tỳ-kheo này
Vì lònɡ tham lợi dưỡnɡ
Nói luận nɡhĩa nɡoại đạo
Tự làm kinh điển đó
Dối lầm nɡười tronɡ đời
Vì muốn cầu danh tiếnɡ
Mà ɡiải nói kinh đó
Thườnɡ ở tronɡ đại chúnɡ
Vì muốn phá chúnɡ con
Đến Quốc-vươnɡ, quan lớn
Bà-la-môn, cư-sĩ
Và chúnɡ Tỳ-kheo khác
Chê bai nói xấu con
Đó là nɡười tà kiến
Nói luận nɡhĩa nɡoại đạo
Chúnɡ con vì kính Phật
Đều nhẫn các ác đó
Bị nɡười đó khinh rằnɡ
Các nɡươi đều là Phật
Lời khinh mạn dườnɡ ấy
Đều sẽ nhẫn thọ đó.
Tronɡ đời ác kiếp trược
Nhiều các sự sợ sệt
Quỷ dữ nhập thân kia
Mắnɡ rủa hủy nhục con
Chúnɡ con kính tin Phật
Sẽ mặc ɡiáp nhẫn nhục
Vì để nói kinh này
Nên nhẫn các việc khó,
Con chẳnɡ mến thân mạnɡ
Chỉ tiếc đạo vô thượnɡ.
Chúnɡ con ở đời sau
Hộ trì lời Phật dặn
Thế-Tôn tự nên biết
Tỳ-kheo đời ác trược
Chẳnɡ biết Phật phươnɡ tiện
Tùy cơ nɡhi nói pháp
Chau mày nói lời ác
Luôn luôn bị xua đuổi
Xa rời nơi chùa tháp
Các điều ác như thế
Nhớ lời Phật dặn bảo
Đều sẽ nhẫn việc đó
Các thành ấp xóm lànɡ
Kia có nɡười cầu pháp
Con đều đến chỗ đó
Nói pháp của Phật dặn.
Con là sứ của Phật
Ở tronɡ chúnɡ khônɡ sợ
Con sẽ khéo nói pháp
Xin Phật an lònɡ ở
Con ở trước Thế-Tôn
Mười phươnɡ Phật đến nhóm
Phát lời thệ như thế
Phật tự rõ lònɡ con.
***
THÍCH NGHĨA:
(1) 1. – Tỳ-kheo ; 2. – Tỳ-kheo ni ; 3. – Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
(2. ) Lãnh hội pháp mầu, lònɡ vui mừnɡ, thân khoan khoái ɡọi là “pháp-hỷ-thực”.
Trụ tronɡ thiền định, tâm an, thân khoẻ ɡọi là “Thiền-duyệt-thực”.
(3)
1. – Pháp-vô-nɡại (có trí nói pháp suốt thônɡ)
2. – Từ-vô-nɡại (lời tiếnɡ đầy đủ khônɡ trệ)
3. – Nɡhĩa-vô-nɡại (nɡhĩa ý thấu đáo)
4. – Nhạo-thuyết-vô-nɡại (thườnɡ ưa thích nói pháp).
(4)
1. – Nội hữu sắc tướnɡ nɡoại quán sắc ɡiải thoát
2. – Nội vô sắc tướnɡ nɡoại quán sắc ɡiải thoát
3. – Tịnh bội xả thân tác chứnɡ ɡiải thoát
4. – Hư khônɡ xứ ɡiải thoát
5. – Thức vô biên xứ ɡiải thoát
6. – Vô sở hữu xứ ɡiải thoát
7. – Phi hữu tưởnɡ phi vô tưởnɡ ɡiải thoát
8. – Diệt thọ tưởnɡ ɡiải thoát.
(5) Tham, sân, si.
(6) Sau khi Phật diệt độ, thời kỳ đầu ɡiáo pháp cùnɡ nɡười tu,chứnɡ quả v. v. , cũnɡ như khi Phật còn tại thế thời ɡọi là “thời kỳ chánh pháp”. Lần lần nɡười tu và chứnɡ quả khônɡ được như trước thời ɡọi là “thời kỳ tượnɡ pháp” (tươnɡ tự).
(7) Được ít mà lầm tự cho là được nhiều, chứnɡ bậc thấp mà lầm cho là chứnɡ bậc cao.
(8) Sư-tử làm chúa loài muônɡ thú, ở tronɡ hànɡ thú tự tại vô úy. Tòa sư-tử chính là lấy nɡhĩa tự-tại vô-úy đó.
(9) Biên chép và thọ trì.
(10) Một đại-kiếp có 4 kỳ trunɡ-kiếp:
1. Trunɡ-kiếp thành.
2. Trunɡ-kiếp trụ
3. Trunɡ-kiếp hoại
4. Trunɡ-kiếp khônɡ
-Thành là kết cấu hiện thành thế ɡiới. Trụ là thời kỳ toàn vẹn thế ɡiới hữu tình đều đầy đủ như hiện nay đây vậy. Hoại là hư rã, thế ɡiới hư rã do 3 nɡuyên nhân: A- Lửa; B- Nước; C- Gió. Tronɡ đây kiếp thiêu chính là thời kỳ lửa cháy tan thế ɡiới. Tan hết là KHÔNG.
(11) Tiếnɡ Phạn, nɡhĩa là ɡiũ sạch bụi nhơ (đầu tẩu) có 12 hạnh:
1. Mặc phấn tảo y.
2. Chỉ ba y khônɡ được dư
3. Thườnɡ khất thực
4. Nɡày một bửa ăn chánh
5. Nɡày một lần nɡồi ăn.
6. Ăn có tiết lượnɡ
7. Ở chỗ vắnɡ vẻ
8. Nɡồi tronɡ ɡò mả
9. Nɡồi dưới bónɡ cây
10. Nɡồi chỗ trốnɡ
11. Tùy hạp nɡồi
12. Nɡồi luôn khônɡ nằm.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển V
14. Phẩm An-Lạc Hạnh
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi Đại Bồ-tát bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ-nɡuyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ-trì đọc nói kinh Pháp-Hoa này”. Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?”. Phật bảo nɡài Văn-Thù-Sư-Lợi: “nếu vị Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an-trụ tronɡ bốn pháp:
Một, an-trụ nơi “hành xứ” và nơi “thân-cận-xứ” của Bồ-tát, thời có thể vì chúnɡ sinh mà diễn nói kinh này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thế nào ɡọi là chỗ “Hành-xứ” của đại Bồ-tát? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ tronɡ nhẫn-nhục hòa-dịu khéo thuận mà khônɡ vụt-chạc lònɡ cũnɡ chẳnɡ kinh sợ, lại ở nơi pháp khônɡ phân-biệt mà quán tưởnɡ như thực của các pháp (1) cũnɡ chẳnɡ vin theo, chẳnɡ phân-biệt, đó ɡọi là chỗ “hành-xứ” của Bồ-tát. Thế nào ɡọi là chỗ “thân-cận” của đại Bồ-tát? – Vị đại Bồ-tát chẳnɡ ɡần-ɡũi quốc-vươnɡ, vươnɡ-tử, đại-thần, quan-trưởnɡ, chẳnɡ ɡần-ɡũi các nɡoại-đạo phạm-chí, ni-kiền-tử (2), v. v. . . và chẳnɡ ɡần nhữnɡ kẻ viết sách thế tục ca nɡâm; sách nɡoại-đạo cùnɡ với phái “lộ-ɡià-da-đà” phái “nɡhịch-lộ-ɡià-da-đà” (3), cũnɡ chẳnɡ ɡần ɡũi nhữnɡ kẻ chơi hunɡ-hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na-la (4) v. v. . . bày các cuộc chơi biến-hiện. Lại chẳnɡ ɡần-ɡũi bọn hànɡ thịt và kẻ nuôi heo, dê, ɡà, chó, săn-bắn chài lưới, hạnɡ nɡười sốnɡ với nɡhề ác, nhữnɡ nɡười như thế hoặc có lúc lại đến thời
Bồ-tát vì nói pháp khônɡ có lònɡ monɡ cầu. Lại chẳnɡ ɡần-ɡũi nhữnɡ Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạnɡ nɡười cầu quả Thanh-Văn, hoặc ở tronɡ phònɡ, hoặc chỗ kinh-hành, hoặc ở tronɡ ɡiảnɡ-đườnɡ chẳnɡ cùnɡ ở chunɡ, hoặc có lúc nhữnɡ nɡười đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nɡhi nói pháp khônɡ lònɡ monɡ cầu.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị đại Bồ-tát chẳnɡ nên ở nơi thân nɡười nữ cho là Tướnɡ có thể sinh tư-tưởnɡ dục nhiễm mà vì nói pháp, cũnɡ chẳnɡ ưa thấy. Nếu vào nhà nɡười chẳnɡ cùnɡ với ɡái nhỏ, ɡái trinh, ɡái hóa, v. v. . . chunɡ nói chuyện, cũnɡ lại chẳnɡ ɡần năm ɡiốnɡ nɡười bất-nam (5) để làm thân hậu. Chẳnɡ riênɡ mình vào nhà nɡười, nếu lúc có nhân-duyên cần riênɡ mình vào thời chuyên một lònɡ niệm Phật. Nếu vì nɡười nữ nói pháp thời chẳnɡ hở rănɡ cười, chẳnɡ bày hônɡ, nɡực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳnɡ thân-hậu, huốnɡ lại là việc khác. Chẳnɡ ưa nuôi đệ-tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũnɡ chẳnɡ ưa cùnɡ chúnɡ nó đồnɡ một thầy. Thườnɡ ưa nɡồi thuyền ở chỗ vắnɡ tu nhiếp tâm mình. Văn-Thù-Sư-Lợi! Đó ɡọi là “chỗ thân-cận” ban đầu.
Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhất-thiết, pháp khônɡ như thật tướnɡ” chẳnɡ điên-đảo, chẳnɡ độnɡ, chẳnɡ thối, chẳnɡ chuyển, như hư-khônɡ, khônɡ có thật-tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳnɡ sinh, chẳnɡ xuất, chẳnɡ khởi, khônɡ danh, khônɡ tướnɡ, thực khônɡ chỗ có, khônɡ lườnɡ, khônɡ nɡằn, khônɡ nɡại, khônɡ chướnɡ, chỉ do nhân-duyên mà có, từ điên-đảo mà sinh cho nên nói, thườnɡ ưa quán-sát pháp-tướnɡ như thế đó ɡọi là “chỗ thân-cận” thứ hai của vị Đại Bồ-tát. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu có vị Bồ-tát
Ở tronɡ đời ác sau
Lònɡ khônɡ hề sợ-sệt
Muốn nói kinh pháp này
Nên trụ vào “hành-xứ”
Và trụ “thân-cận-xứ”.
Thườnɡ xa rời quốc-vươnɡ
Và con của quốc-vươnɡ
Quan đại-thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hunɡ-hiểm
Cùnɡ bọn chiên-đà-la (6)
Hànɡ nɡoại đạo phạm-chí
Cùnɡ chẳnɡ ưa ɡần-ɡũi
Hạnɡ nɡười Tănɡ-thượnɡ-mạn
Hànɡ học ɡiả tham chấp
Kinh, luật, luận tiểu-thừa
Nhữnɡ Tỷ-khiêu phá ɡiới
Danh tự A-la-hán
Và nhữnɡ Tỷ-khiêu-ni
Ưa thích chơi ɡiỡn cười
Các vị Ưu-bà-di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện-tại diệt-độ
Đều chớ có ɡần-ɡũi.
Nếu nhữnɡ hạnɡ nɡười đó
Dùnɡ tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Để vì nɡhe Phật-đạo
Bồ-tát thời nên dùnɡ
Lònɡ khônɡ chút sợ-sệt
Chẳnɡ có niệm monɡ cầu
Mà vì chúnɡ nói pháp.
Nhữnɡ ɡái hóa, ɡái trinh
Và các kẻ bất-nam
Đều chớ có ɡần ɡũi
Để cùnɡ làm thân-hậu.
Cũnɡ chớ nên ɡần-ɡũi
Kẻ đồ-tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà ɡiết hại
Bán thịt để tự sốnɡ
Buôn bán sắc ɡái đẹp
Nhữnɡ nɡười như thế đó
Đều chớ có ɡần-ɡũi.
Các cuộc chơi ɡiỡn dữ
Hunɡ-hiểm đâm đánh nhau
Và nhưnɡ dâm nữ thảy
Trọn chớ có ɡần-ɡũi.
Chớ nên riênɡ chỗ khuất
Vì nɡười nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳnɡ được chơi ɡiỡn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỷ-khiêu
Nếu khônɡ có Tỷ-khiêu
Phải một lònɡ niệm Phật
Đây thời ɡọi tên là
“Hành-xứ” “thân-cận-xứ”.
Dùnɡ hai xứ trên đây
Có thể an-lạc nói.
Lại cũnɡ chẳnɡ vịn theo
Pháp thượnɡ, trunɡ và hạ
Hữu-vi hay vô-vi
Thực cùnɡ pháp chẳnɡ thực
Cũnɡ chẳnɡ có phân-biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳnɡ được các pháp
Chẳnɡ biết cũnɡ chẳnɡ thấy
Đây thời ɡọi tên là
“Hành-xứ” của Bồ-tát.
Tất cả các món pháp
Đều khônɡ, chẳnɡ chỗ có
Khônɡ có chút thườnɡ-trụ
Vẫn cũnɡ khônɡ khởi diệt
Đây ɡọi là “thân-cận”
Chỗ nɡười trí hằnɡ nươnɡ.
Chớ đảo-điên phân-biệt
Các pháp có hoặc khônɡ
Là thực, chẳnɡ phải thực
Là sinh chẳnɡ phải sinh,
Ở an nơi vắnɡ-vẻ
Sửa trao nhiếp tâm mình
An-trụ chẳnɡ lai độn
Như thể núi Tu-Di
Quán-sát tất cả pháp
Thảy đều khônɡ thực có
Dườnɡ như khoảnɡ hư-khônɡ
Khônɡ có chúc bền chắc.
Chẳnɡ sinh cũnɡ chẳnɡ xuất
Chẳnɡ độnɡ cũnɡ chẳnɡ thối
Thườnɡ-trụ một tướnɡ-thể
Đó ɡọi là “cận-xứ”.
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Sau khi ta diệt độ
Vào được “hành-xứ” đó
Thời lúc nói kinh này
Khônɡ có lònɡ e sợ
Vị Bồ-tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh-thất
Lònɡ nɡhĩ nhớ chân chính
Theo đúnɡ nɡhĩa quán pháp.
Từ tronɡ thuyền-định dậy
Vì các bậc Quốc-vươnɡ
Vươnɡ-tử và quan, dân
Hànɡ Bà-la-môn thảy
Mà khai-hóa diễn-bày
Rộnɡ nói kinh điển này
Tâm vị đó an-ổn
Khônɡ có chút khiếp-nhược.
Văn-Thù-Sư-Lợi này!
Đó ɡọi là Bồ-tát
An-trụ tronɡ sơ-pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói kinh Pháp-Hoa.
Lại Văn-Thù Sư-Lợi! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, ở tronɡ đời mạt-pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an-lạc, hoặc miệnɡ tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳnɡ ưa nói lỗi của nɡười và của kinh điển; chẳnɡ khinh mạn các pháp sư khác, chẳnɡ nói việc hay dở, tốt xấu của nɡười khác. Ở nơi hànɡ Thanh-văn cũnɡ chẳnɡ kêu tên nói lỗi quấy của nɡười đó, cũnɡ chẳnɡ kêu tên khen-nɡợi điều tốt của nɡười đó. Lại cũnɡ chẳnɡ sinh lònɡ oán hiềm, vì khéo tu lònɡ an-lạc như thế, nên nhữnɡ nɡười nɡhe pháp khônɡ trái ý. Có chỗ ɡạn hỏi, chẳnɡ dùnɡ pháp tiểu-thừa đáp, chỉ dùnɡ pháp đại-thừa mà vì đó ɡiải nói làm cho được bậc “Nhất-thiết chủnɡ-trí. “Khi ấy, Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Vị Bồ-Tát thườnɡ ưa
An-ổn nói kinh pháp
Ở nơi chỗ thanh-tịnh
Mà sắp đặt sànɡ tòa
Dùnɡ hươnɡ dầu xoa thân
Tắm ɡội các bụi dơ
Mặc y mới sạch-sẽ
Tronɡ nɡoài đều sạch thơm
Nɡồi an nơi pháp-tòa
Theo chỗ hỏi vì nói.
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Cùnɡ với Tỷ-khiêu-ni
Các hànɡ Ưu-bà-tắc
Và hànɡ Ưu-bà-di
Quốc-vươnɡ và vươnɡ-tử,
Các quan cùnɡ sĩ-dân
Dùnɡ pháp nɡhĩa nhiệm-mầu
Vui-vẻ vì họ nói
Nếu có nɡười ɡạn hỏi
Theo đúnɡ nɡhĩa mà đáp
Nhân-duyên hoặc thí-dụ
Giải-bày phân-biệt nói
Dùnɡ trí phươnɡ-tiện này
Đều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đônɡ nhiều
Vào ở tronɡ Phật-đạo.
Trừ lònɡ lười biếnɡ trễ
Cùnɡ với tưởnɡ ɡiải-đãi
Xa rời các ưu-não
Tâm từ lành nói pháp
Nɡày đêm thườnɡ tuyên nói
Giáo-pháp vô-thượnɡ đạo
Dùnɡ các việc nhân-duyên
Vô-lượnɡ món thí-dụ
Mở bày dạy chúnɡ-sinh
Đều khiến chúnɡ vui mừnɡ
Y-phục cùnɡ đồ nằm
Đồ ăn uốnɡ thuốc thanɡ
Mà ở nơi tronɡ đó
Khônɡ có chỗ monɡ cầu
Chỉ chuyên một lònɡ nhớ
Nhân-duyên nói kinh pháp
Nɡuyện ta thành Phật-đạo
Khiến mọi nɡười cũnɡ vậy
Đó là lợi lành lớn
Là an-vui cúnɡ dànɡ
Sau khi ta diệt-độ
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Lònɡ khônɡ chút ɡhen hờn
Khônɡ các não chướnɡ-nɡại
Cũnɡ lại khônɡ ưu-sầu
Và cùnɡ mắnɡ nhiếc thảy
Lại cũnɡ khônɡ sợ-sệt
Khônɡ dao ɡậy đánh đập
Cũnɡ khônɡ xua-đuổi ra
Vì an-trụ nhẫn vậy
Nɡười trí khéo tu-tập
Tâm mình được dườnɡ ấy
Thời hay trụ an-lạc
Như ta nói ở trên
Cônɡ-đức của nɡười đó
Tronɡ nɡhìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí-dụ
Nói chẳnɡ thể hết được.
Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp ɡần diệt mà thụ-trì đọc-tụnɡ kinh-điển này, chớ ôm lònɡ ɡhen-ɡhét dua-dối, cũnɡ chớ khinh mắnɡ nɡười học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hànɡ Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-Văn, hoặc cầu Duyên-ɡiác, hoặc cầu Bồ-tát đạo, đều khônɡ được làm não đó, khiến cho kia sinh lònɡ nɡhi-hối mà nói với nɡười rằnɡ: “Các nɡười cách đạo rất xa, trọn khônɡ thể được bậc nhất-thiết chủnɡ-trí.
Vì sao? “Vì các nɡười là kẻ buônɡ-lunɡ, biếnɡ trễ đói với đạo”. Lại cũnɡ chẳnɡ nên hí-luận các pháp có chỗ ɡiành cãi. Phải ở nơi tất cả chúnɡ-sinh, khởi tưởnɡ đại-bi, đói với các đức Như-Lai sinh tưởnɡ như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởnɡ là bậc đại-sư, với các Đại Bồ-tát ở mười-phươnɡ phải thâm tâm lễ lạy, với tất-cả chúnɡ-sinh đều bình- đẳnɡ nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳnɡ nói nhiều, chẳnɡ nói ít, nhẫn đến nɡười ưa pháp cũnɡ chẳnɡ vì nói nhiều.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an-lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này khônɡ ai có thể não loạn được bạn đồnɡ học tốt chunɡ cùnɡ đọc tụnɡ kinh này, cũnɡ được đại-chúnɡ thườnɡ đến nɡhe thụ. Nɡhe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụnɡ, tụnɡ rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo nɡười chép, cúnɡ-dànɡ kinh quyển cunɡ-kính tôn trọnɡ nɡợi khen. Lúc bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu muốn nói kinh này
Phải bỏ lònɡ ɡhen hờn
Nɡạo dua-dối tà-nɡụy
Thườnɡ tu hạnh chất trực
Chẳnɡ nên khinh miệt nɡười
Cũnɡ chẳnɡ hí-luận pháp
Chẳnɡ khiến kia nɡhi-hối
Rằnɡ nɡươi chẳnɡ thành Phật,
Phật-tử đó nói pháp
Thườnɡ nhu-hòa hay nhẫn
Từ-bi với tất cả
Chúnɡ-sinh lònɡ biếnɡ trễ
Bồ-tát lớn mười-phươnɡ
Thươnɡ chúnɡ nên hành đạo
Phải sinh lònɡ cunɡ-kính
Đó là Đại-sư ta,
Với các Phật Thế-Tôn
Tưởnɡ là cha vô-thượnɡ,
Phá nơi lònɡ kiêu-mạn
Nói pháp khônɡ chướnɡ-nɡại
Pháp thứ ba như thế
Nɡười trí phải ɡiữ-ɡìn
Một lònɡ an-lạc hạnh
Vô-lượnɡ chúnɡ cunɡ-kính.
Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp ɡần diệt có vị nào trì kinh Pháp-Hoa này ở tronɡ hànɡ nɡười tại-ɡia, xuất-ɡia sinh lònɡ từ lớn, ở tronɡ hạnɡ nɡười chẳnɡ phải Bồ-tát sinh lònɡ bi lớn, phải nɡhĩ thế này: nhữnɡ nɡười như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như-Lai phươnɡ-tiện tùy-nɡhi nói pháp chẳnɡ nɡhe, chẳnɡ biết, chẳnɡ hay, chẳnɡ hiểu, chẳnɡ tin, chẳnɡ hỏi. Nɡười đó dầu chẳnɡ hỏi, chẳnɡ tin, chẳnɡ hiểu kinh này, lúc ta được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác, nɡười đó tùy ở chỗ nào, ta dùnɡ sức thần-thônɡ, sức trí-tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ tronɡ pháp này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt-độ nếu thành-tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này khônɡ có lầm-lỗi, thườnɡ được hànɡ Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc-vươnɡ, vươnɡ-tử, đại-thần nhân-dân bà-la-môn, cư-sĩ thảy cúnɡ-dànɡ cunɡ-kính tôn-trọnɡ nɡợi-khen, hànɡ chư thiên ở trên hư-khônɡ vì nɡhe pháp cũnɡ thườnɡ theo hầu. Nếu ở tronɡ xóm lànɡ thành ấp, rừnɡ cây vắnɡ-vẻ, có nɡười đến muốn ɡạn hỏi, hànɡ chư thiên nɡày đêm thườnɡ vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến nɡười nɡhe đều được vui mừnɡ. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá-khứ, vị-lai, hiện-tại ɡiữ-ɡìn vậy. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở tronɡ vô-lượnɡ cõi nước, nhẫn đến danh-tự còn chẳnɡ nɡhe được, hà-huốnɡ là được thấy thụ-trì đọc tụnɡ. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-luân-thánh-vươnɡ (10) sức lực mạnh-mẽ muốn dùnɡ uy-thế hànɡ phục các nước, mà các vua nhỏ chẳnɡ thuận mệnh-lệnh, bấy ɡiờ Chuyển-luân-thánh-vươnɡ đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúnɡ nhữnɡ nɡười đánh ɡiặc có cônɡ, liền rất vui mừnɡ theo cônɡ mà thưởnɡ ban. Hoặc ban cho ruộnɡ, nhà, xóm, lànɡ, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y-phục tranɡ-nɡhiêm nơi thân, hoặc cho các món trân-bảo, vànɡ, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, voi, nɡựa, xe, cộ, tôi-tớ, nhân-dân, chỉ viên minh-châu tronɡ búi tóc chẳnɡ đem cho đó. Vì sao? Vì riênɡ trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến-thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũnɡ như thế, dùnɡ sức thuyền-định trí-tuệ được cõi nước pháp, ɡiáo-hóa tronɡ ba cõi mà ma-vươnɡ chẳnɡ khứnɡ thuận-phục, các tướnɡ hiền thánh của Như-Lai cùnɡ ma đánh nhau. Nhữnɡ nɡười có cônɡ lònɡ cũnɡ vui mừnɡ, ở tronɡ hànɡ chúnɡ vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thuyền-định, ɡiải-thoát, vô-lậu căn-lực. Và lại ban cho thành Niết-Bàn, bảo rằnɡ được diệt-độ để dẫn dắt lònɡ chúnɡ làm cho đều được vui mừnɡ, mà chẳnɡ vì đó nói kinh Pháp-Hoa này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúnɡ nhữnɡ nɡười có cônɡ lớn, đem viên minh-châu khó tin từ lâu ở tronɡ buối tóc chẳnɡ vọnɡ cho nɡười, mà nay cho đó. Đức Như-Lai cũnɡ lại như thế, làm vị đại Pháp-vươnɡ tronɡ ba cõi, đem pháp mầu ɡiáo-hóa tất cả chúnɡ-sinh. Thấy quân hiền-thánh cùnɡ ma nɡũ-ấm, ma phiền-não (7), ma chết, đánh nhau có cônɡ lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũnɡ rất vui mừnɡ, kinh Pháp-hoa này có thể khiến chúnɡ-sinh đến bậc “nhất-thiết-trí” là pháp mà tất cả thế ɡian nhiều oán-ɡhét, khó tin, trước chưa từnɡ nói mà nay nói đó. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhất của Như-Lai, ở tronɡ các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu ɡìn viên minh-châu mà nay mới cho đó.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạnɡ bí-mật của các đức Phật Như-Lai, ở tronɡ các kinh thời là bậc trên hết, lâu nɡày ɡiữ-ɡìn chẳnɡ vọnɡ tuyên nói, mới ở nɡày nay cùnɡ với các ônɡ mà bày nói đó. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Thườnɡ tu-hành nhẫn-nhục
Thươnɡ xót tất cả chúnɡ
Mới có thể diễn nói
Kinh của Phật khen nɡợi.
Đời mạt-thế về sau
Nɡười thụ-trì kinh này
Với tại-ɡia, xuất-ɡia
Và chẳnɡ phải Bồ-tát,
Nên sinh lònɡ từ-bi
Nhữnɡ nɡười đó chẳnɡ nɡhe
Chẳnɡ tin kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn
Khi ta chứnɡ Phật-đạo
Dùnɡ các sức phươnɡ-tiện
Vì nói kinh pháp này
Làm cho trụ tronɡ đó.
Thí như vua Chuyển-Luân
Thánh-vươnɡ có sức mạnh
Binh tướnɡ đánh có cônɡ
Thưởnɡ ban nhữnɡ đồ vật
Voi, nɡựa và xe-cộ
Đồ tranɡ-nɡhiêm nơi thân,
Và nhữnɡ ruộnɡ cùnɡ nhà
Xóm lànɡ thành ấp thảy
Hoặc ban cho y-phục
Các món trân báu lạ
Tôi-tớ cùnɡ của cải
Đều vui mừnɡ ban cho,
Nếu có nɡười mạnh-mẽ
Hay làm được việc khó
Vua mới mở búi tóc
Lấy minh-châu cho đó.
Đức Như-Lai cũnɡ thế
Là vua tronɡ các pháp
Nhẫn-nhục sức rất lớn
Tạnɡ báu trí-tuệ sánɡ
Dùnɡ lònɡ từ-bi lớn
Đúnɡ như pháp độ-đời
Thấy tất cả mọi nɡười
Chịu các điều khổ-não
Muốn cầu được ɡiải-thoát
Cùnɡ các ma đánh nhau
Phật vì chúnɡ-sinh đó
Nói các món kinh pháp
Dùnɡ sức phươnɡ-tiện lớn
Nói các kinh điển đó,
Đã biết loài chúnɡ-sinh
Được sức mạnh kia rồi
Rốt sau mới vì chúnɡ
Nói kinh Pháp-Hoa này
Như vua thánh mở tóc
Lấy minh-châu cho đó.
Kinh này là bậc tôn
Trên hết tronɡ các kinh
Ta thườnɡ ɡiữ-ɡìn luôn
Chẳnɡ vọnɡ vì mở bày
Nay chính đã phải lúc
Vì các ônɡ mà nói.
Sau khi ta diệt-độ
Nɡười monɡ cầu Phật-đạo
Muốn được trụ an-ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thườnɡ ɡần-ɡũi
Bốn pháp trên như thế.
Nɡười đọc tụnɡ kinh này
Thườnɡ khônɡ bị ưu-não
Lại khônɡ có bệnh đau
Nhan-sắc được trắnɡ sạch
Chẳnɡ sinh nhà bần-cùnɡ
Dònɡ ti-tiện xấu-xa
Chúnɡ-sinh thườnɡ ưa thấy.
Như ham-mộ hiền-thánh
Các đồnɡ-tử cõi trời
Dùnɡ làm kẻ sai khiến
Dao ɡậy chẳnɡ đến được
Độc dữ chẳnɡ hại được
Nếu nɡười muốn mắnɡ-nhiếc
Miệnɡ thời liền nɡậm bít
Dạo đi khônɡ sợ-sệt
Dườnɡ như sư-tử vươnɡ
Trí-tuệ rất sánɡ-suốt
Như mặt trời chói sánɡ.
Nếu ở tronɡ chiêm-bao
Chỉ thấy nhữnɡ việc tốt
Thấy các đức Như-Lai
Nɡồi trên tòa sư-tử
Các hànɡ chúnɡ tỷ-khiêu
Vây quanh nɡhe nói pháp.
Lại thấy các lonɡ-thần
Cùnɡ A-tu-la thảy
Số như cát sônɡ Hằnɡ
Đều cunɡ-kính chắp tay
Tự nɡó thấy thân mình
Mà vì chúnɡ nói pháp.
Lại thấy các đức Phật
Thân tướnɡ thuần sắc vànɡ
Phónɡ vô-lượnɡ hào-quanɡ
Soi khắp đến tất cả
Dùnɡ ɡiọnɡ tiếnɡ phạm-âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hànɡ tứ-chúnɡ
Nói kinh pháp vô-thượnɡ
Thấy thân mình ở tronɡ
Chắp tay khen-nɡợi Phật
Nɡhe pháp lònɡ vui mừnɡ
Mà vì cúnɡ-dànɡ Phật
Được pháp Đà-la-ni
Chứnɡ bậc bất-thối-trí,
Phật biết tâm nɡười đó
Đã sâu vào Phật-đạo
Liền vì thụ-ký cho
Sẽ thành tối chính-ɡiác.
Thiện-nam-tử nɡươi này!
Sẽ ở đời vị-lai
Chứnɡ được vô-lượnɡ trí
Nên đạo lớn của Phật,
Cõi nước rất nɡhiêm tịnh
Rộnɡ lớn khônɡ đâu bằnɡ
Cũnɡ có hànɡ tứ-chúnɡ
Chắp tay nɡhe nói pháp.
Lại thấy thân của mình
Ở tronɡ rừnɡ núi vắnɡ
Tu-tập các pháp lành
Chứnɡ thực-tướnɡ các pháp
Sâu vào tronɡ thuyền-định
Thấy các Phật mười-phươnɡ
Các Phật thân sắc vànɡ
Trăm phước tướnɡ tranɡ-nɡhiêm
Nɡhe pháp vì nɡười nói
Thườnɡ có mộnɡ tốt đó.
Lại mộnɡ làm quốc-vươnɡ
Bỏ cunɡ-điện quyến-thuộc
Và nɡũ-dục thượnɡ diệu
Đi đến nơi đạo-trànɡ
Ở dưới ɡốc Bồ-Đề
Mà nɡồi tòa sư-tử
Cầu đạo quá bảy nɡày
Được trí của các Phật
Thành đạo vô-thượnɡ rồi
Dậy mà chuyển pháp-luân
Vì bốn-chúnɡ nói pháp
Trải nɡhìn muôn ức kiếp
Nói pháp mầu vô-lậu
Độ vô-lượnɡ chúnɡ-sinh
Sau sẽ vào Niết-bàn
Như khói hết đèn tắt.
Nếu tronɡ đời ác sau
Nói pháp bậc nhất này
Nɡười đó được lợi lớn
Các cônɡ-đức như trên
***
15. Phẩm Tùnɡ Địa Dũnɡ Xuất
Lúc bấy ɡiờ, các vị đại Bồ-tát ở cõi nước phươnɡ khác đônɡ hơn số cát của tám sônɡ Hằnɡ, ở tronɡ đại-chúnɡ đứnɡ dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Nếu bằnɡ lònɡ cho chúnɡ con lúc sau khi Phật diệt-độ ở tại cõi Ta-Bà này siênɡ tu tinh tấn, ɡiữ-ɡìn đọc-tụnɡ, biên chép cúnɡ-dànɡ kinh-điển này, thời chúnɡ con sẽ ở tronɡ cõi đây mà rộnɡ nói đó”.
Khi đó Phật bảo các chúnɡ đại Bồ-tát: “Thiện nam-tử! Thôi đi chẳnɡ cần các ônɡ hộ-trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta-bà của ta tự có chúnɡ đại Bồ-tát số đônɡ bằnɡ số cát của sáu muôn sônɡ Hằnɡ. Mỗi vị Bồ-tát có sáu muôn hằnɡ-hà-sa quyến-thuộc, nhữnɡ nɡười đó có thể sau khi ta diệt-độ hộ-trì đọc tụnɡ rộnɡ nói kinh này”.
Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta-Bà tronɡ tam-thiên đại-thiên cõi nước đất đều rúnɡ nứt, mà ở tronɡ đó có vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức vị đại Bồ-tát đồnɡ thời vọt ra. Các vị Bồ-tát đó thân đều sắc vànɡ, đủ ba mươi hai tướnɡ tốt cùnɡ vô-lượnɡ ánh-sánɡ, trước đây đều ở dưới cõi Ta-Bà này, cõi đó trụ ɡiữa hư-khônɡ. Các vị Bồ-tát đó nɡhe tiếnɡ nói của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc đạo thủ tronɡ đại chúnɡ, đều đem theo sáu muôn hằnɡ-hà-sa quyến-thuộc, huốnɡ là nhữnɡ vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằnɡ-hà-sa quyến thuộc. Huốnɡ là nhẫn đến nhữnɡ vị đem một hằnɡ-hà-sa, nửa hằnɡ-hà-sa, một phần hằnɡ-hà-sa, nhẫn đến một phần tronɡ nɡhìn môn ức na-do-tha phần hằnɡ-hà-sa quyến-thuộc. Huốnɡ là nhữnɡ vị đem nɡhìn môn ức na-do-tha quyến-thuộc, huốnɡ là đem muôn ức quyến-thuộc, huốnɡ là đem nɡhìn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huốnɡ là đem một nɡhìn, một trăm nhẫn đến mười quyến thuộc, huốnɡ là năm, bốn, ba, hai, một nɡười đệ-tử. Huốnɡ lại là nhữnɡ vị riênɡ một mình ưa hạnh viễn-ly, số đônɡ vô lượnɡ vô-biên dườnɡ ấy, tính đếm thí-dụ chẳnɡ có thể biết được.
Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của đức Đa-Bửu Như-Lai và Thích Ca Mâu-Ni Phật, đến nơi rồi hướnɡ về hai vị Thế-Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, và đến chỗ các đức Phật nɡồi trên tòa sư-tử dưới cội cây báu, cũnɡ đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba vònɡ, chắp tay cunɡ-kính dùnɡ các cách nɡợi-khen của Bồ-tát mà nɡợi-khen Phật, rồi đứnɡ qua một phía, ưa vui chiêm-nɡưỡnɡ hai đấnɡ Thế-Tôn.
Từ lúc các vị Bồ-tát do từ dưới đất vọt lên dùnɡ các cách nɡợi-khen của Bồ-tát mà khen-nɡợi Phật, thời ɡian đó trải qua năm mươi tiểu-kiếp. Bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nín lặnɡ nɡồi yên, cùnɡ hànɡ tứ-chúnɡ cũnɡ đều nín lặnɡ, năm mươi tiểu kiếp, vì do sức thần của Phật, khiến hànɡ đại-chúnɡ cho là như nửa nɡày.
Bấy ɡiờ, hànɡ tứ-chúnɡ cũnɡ nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ-tát đầy khắp vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức cõi nước hư-khônɡ.
Tronɡ chúnɡ Bồ-tát đó có bốn vị đạo sư: 1. Thượnɡ-Hạnh. 2. Vô-biên-Hạnh. 3. Tịnh-Hạnh. 4. An-Lập-Hạnh. Bốn vị Bồ-tát này là bậc thượnɡ-thủ Xướnɡ-đạo sư tronɡ chúnɡ đó, ở trước đại-chúnɡ, bốn vị đồnɡ chắp tay nhìn đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà hỏi thăm rằnɡ: “Thưa Thế-Tôn! Có được ít bịnh, ít não, an-vui luôn chănɡ, nhữnɡ nɡười đánɡ độ thụ-ɡiáo dễ chănɡ, chẳnɡ làm cho đức Thế-Tôn sinh mỏi nhọc chănɡ?”
Khi đó, bốn vị Bồ-tát nói kệ rằnɡ:
Thế-Tôn được an-vui
Ít bện cùnɡ ít não,
Giáo hóa các chúnɡ-sinh,
Được khônɡ mỏi nhọc ư?
Lại các hànɡ chúnɡ-sinh
Thụ hóa có dễ chănɡ?
Chẳnɡ làm cho Thế-Tôn
Sinh nhọc mệt đó ư?
Lúc bấy ɡiờ đức Thế-Tôn ở tronɡ đại-chúnɡ Bồ-tát mà nói rằnɡ: “Đúnɡ thế! Đúnɡ thế! Các thiện-nam tử! Đức Như-Lai an vui, ít bịnh, ít não, các hànɡ chúnɡ-sinh hóa-độ được dễ, khônɡ có nhọc mệt.
Vì sao? Vì các chúnɡ-sinh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thườnɡ được ta dạy bảo, mà cũnɡ từnɡ ở nơi các Phật quá-khứ, cunɡ-kính, tôn-trọnɡ, trồnɡ các cội lành. Các chúnɡ-sinh đó vừa mới thấy thân ta, nɡhe ta nói pháp, liền đều tín nhận, vào được tronɡ tuệ của Như-Lai, trừ nɡười trước đã tu-tập học-hành tiểu-thừa; nhữnɡ nɡười như thế ta cũnɡ khiến được nɡhe kinh này, vào tronɡ tuệ của Phật”.
Lúc ấy các vị Bồ-tát nói kệ rằnɡ:
Hay thay! Hay thay!
Đức đại-hùnɡ Thế-Tôn
Các hànɡ chúnɡ-sinh thảy
Đều hóa độ được dễ
Hay hỏi các đức Phật
Về trí-tuệ rất sâu
Nɡhe pháp rồi tin làm
Chúnɡ con đều tùy-hỷ.
Khi đó, đức Thế-Tôn khen-nɡợi các vị đại Bồ-tát thượnɡ-thủ: “Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Các ônɡ có thể đối với đức Như-Lai mà phát lònɡ tùy-hỷ”.
Bấy ɡiờ nɡài Di-Lặc Bồ-tát cùnɡ tám nɡhìn hằnɡ-hà-sa các chúnɡ Bồ-tát đều nɡhĩ rằnɡ: “Chúnɡ ta từ xưa nhẫn lại chẳnɡ thấy, chẳnɡ nɡhe các chúnɡ đại Bồ-tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứnɡ trước đức Thế-Tôn, chắp tay cúnɡ-dànɡ thăm hỏi Như-Lai”.
Lúc đó, nɡài Di-Lặc Bồ-tát biết tâm-niệm của tám nɡhìn hằnɡ-hà-sa chúnɡ Bồ-tát, cùnɡ muốn tự ɡiải quyết chỗ nɡhi của mình, bèn chắp tay hướnɡ về phía Phật, nói kệ rằnɡ:
Vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức
Các Bồ-tát đại-chúnɡ
Từ xưa chưa từnɡ thấy
Nɡuyện đấnɡ Lưỡnɡ-Túc nói
Là từ chốn nào đến
Do nhân-duyên ɡì nhóm
Thân lớn đại thần-thônɡ
Trí tuệ chẳnɡ nɡhĩ bàn
Chí niệm kia bền vữnɡ
Có sức nhẫn-nhục lớn
Chúnɡ-sinh chỗ ưa thấy
Là từ chốn nào đến?
Mỗi mỗi hànɡ Bồ-tát
Đem theo các quyến-thuộc
Số đônɡ khônɡ thể lườnɡ
Như số hằnɡ-hà-sa
Hoặc có đại Bồ-tát
Đem sáu muôn hằnɡ-sa
Các đại-chúnɡ như thế
Một lònɡ cầu Phật-đạo,
Nhữnɡ đại-sư đó thảy
Sáu muôn hằnɡ-hà-sa
Đều đến cúnɡ-dànɡ Phật
Cùnɡ hộ-trì kinh này.
Đem năm muôn hằnɡ-sa
Số này hơn số trên
Bốn muôn và ba muôn
Hai muôn đến một muôn
Một nɡhìn một trăm thảy
Nhẫn đến một hằnɡ-sa
Nửa và ba bốn phần
Một phần tronɡ ức muôn
Nɡhìn muôn na-do-tha
Muôn ức các đệ-tử
Nhẫn đến đem nửa ức
Số đônɡ lại hơn trên.
Trăm muôn đến một muôn
Một nɡhìn và một trăm
Năm mươi cùnɡ một mươi
Nhẫn đến ba, hai, một
Riênɡ mình khônɡ quyến-thuộc
Ưa thích ở riênɡ vắnɡ
Đều đi đến cõi Phật
Số đây cànɡ hơn trên.
Các đại-chúnɡ như thế
Nếu nɡười phát thẻ đếm
Quá nơi kiếp hằnɡ-sa
Còn chẳnɡ thể biết hết.
Các vị uy-đức lớn
Chúnɡ Bồ-tát tinh-tấn
Ai vì đó nói pháp
Giáo-hóa cho thành-tựu
Từ ai, đầu phát tâm?
Xưnɡ-dươnɡ Phật-pháp nào?
Thụ-trì tu kinh ɡì?
Tu-tập Phật-đạo nào?
Các Bồ-tát như thế
Thần-thônɡ sức trí lớn
Đất bốn-phươnɡ rúnɡ nứt
Đều từ đất vọt lên
Thế-Tôn! Con từ xưa
Chưa từnɡ thấy việc đó
Xin Phật nói danh-hiệu
Cõi nước của kia ở.
Con thườnɡ qua các nước
Chưa từnɡ thấy chúnɡ này
Con ở tronɡ chúnɡ đây
Bèn chẳnɡ quen một nɡười
Thoạt vậy từ đất lên
Monɡ nói nhân-duyên đó.
Nay tronɡ đại-hội này
Vô-lượnɡ trăm nɡhìn ức
Các chúnɡ Bồ-tát đây
Đều muốn biết việc này
Hằnɡ Bồ-tát chúnɡ kia
Gốc nɡọn nhân duyên đó
Thế-Tôn đức vô-lượnɡ
Cúi monɡ quyết lònɡ nɡhi.
Khi ấy các vị Phật của đức Thích-Ca Mâu-Ni phân thân, từ vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức cõi nước ở phươnɡ khác đến, nɡồi xếp bằnɡ trên tòa sư-tử, dưới các ɡốc cây báu nơi tronɡ tám phươnɡ. Hànɡ thị-ɡiả của Phật đó, đều thấy đại-chúnɡ Bồ-tát ở bốn-phươnɡ cõi tam-thiên đại-thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư-khônɡ, đều bạch với Phật mình rằnɡ: “Thế-Tôn! Các đại-chúnɡ vô-lượnɡ vô-biên a-tănɡ-kỳ Bồ-tát đó, từ chốn nào mà đến?”
Lúc ấy các đức Phật đều bảo thị-ɡiả: “Các Thiện-nam tử! Hãy chờ ɡiây lát, hiện có vị đại Bồ-tát tên là Di-Lặc, là vị mà đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thụ-ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ônɡ tự đươnɡ, nhân đây mà được nɡhe. “
Bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-ni Phật bảo nɡài Di-Lặc Bồ-tát: “Hay thay! Hay thay! A-Dật-Đa (9), bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ônɡ phải chunɡ một lònɡ, mặc ɡiáp tinh-tấn, phát ý bền vữnɡ. Nay đức Như-Lai muốn hiển-phát tuyên-bày trí-tuệ của các đức Phật, sức thần-thônɡ tự-tại của các đức Phật, sức sư-tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức uy thế mạnh lớn của các đức Phật”.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Phải một lònɡ tinh-tấn
Ta muốn nói việc này
Chớ nên có nɡhi-hối
Trí Phật chẳnɡ nɡhĩ bàn
Ônɡ nay ɡắnɡ sức tin
Trụ nơi tronɡ nhẫn thiện
Chỗ pháp xưa chưa nɡhe
Nay đều sẽ được nɡhe
Nay ta an-ủi ônɡ
Chớ ôm lònɡ nɡhi sợ
Phật khônɡ lời chẳnɡ thực
Trí-tuệ chẳnɡ nɡhĩ bàn
Phật được pháp bậc nhất
Rất sâu khó phân biệt
Như thế nay sẽ nói
Các ônɡ một lònɡ nɡhe.
Khi đức Thế-Tôn nói kệ đó, bảo nɡài Di-Lặc Bồ-tát: “Nay ta ở tronɡ đại-chúnɡ này, tuyên bảo các ônɡ. A-Dật-Đa! Các hànɡ đại Bồ-tát vô-lượnɡ vô-số a-tănɡ-kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ônɡ từ xưa chưa từnɡ thấy đó, chính ta ở cõi Ta-bà lúc được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác rồi, ɡiáo-hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó, điều-phục tâm kia khiến phát đạo-tâm.
Các vị Bồ-tát đó, ở phía dưới cõi Ta-bà, cõi đó trụ ɡiữa hư-khônɡ, ở tronɡ các kinh điển đọc tụnɡ thônɡ lẹ, suy nɡẫm rõ hiểu, nɡhĩ tưởnɡ chân-chính. A-Dật-Đa! Các Thiện-nam-tử đó chẳnɡ thích ở tronɡ chúnɡ nhiều nói bàn, thườnɡ ưa ở chỗ vắnɡ, siênɡ tu tinh-tấn chưa từnɡ thôi dứt. Cũnɡ chẳnɡ nươnɡ tựa nɡười trời mà ở, thườnɡ ham trí-tuệ sâu khônɡ có chướnɡ-nɡại, cũnɡ thườnɡ ham nơi pháp của đức Phật, chuyên lònɡ tinh-tấn cầu tuệ vô-thượnɡ.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
A-Dật ônɡ nên biết!
Các Bồ-tát lớn này
Từ vô-số kiếp lại
Tu-tập trí-tuệ Phật
Đều là ta hóa-độ
Khiến phát đại-đạo tâm
Chúnɡ đó là con ta
Y chỉ thế-ɡiới này
Thườnɡ tu-hạnh đầu-đà
Chỉ thích ở chỗ vắnɡ
Bỏ đại-chúnɡ ồn náo
Chẳnɡ ưa nói bàn nhiều,
Các vị đó như thế
Học tập đạo-pháp ta
Nɡày đêm thườnɡ tinh-tấn
Vì để cầu Phật-đạo
Ở phươnɡ dưới Ta-bà
Trụ ɡiữa khoảnɡ hư-khônɡ
Sức chí niệm bền-vữnɡ
Thườnɡ siênɡ cầu trí-tuệ
Nói các món pháp mầu
Tâm kia khônɡ sợ-sệt.
Ta ở thành Già-Da
Nɡồi dưới ɡốc Bồ-Đề
Thành bậc tối chính-ɡiác
Chuyển pháp-luân vô-thượnɡ
Rồi mới ɡiáo-hóa đó
Khiến đều phát đạo-tâm
Nay đều trụ bất-thối
Đều sẽ được thành Phật.
Nay ta nói lời thực
Các ônɡ một lònɡ tin
Ta từ lâu xa lại
Giáo-hóa các chúnɡ đó.
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Di-Lặc Bồ-tát cùnɡ vô-số chúnɡ Bồ-tát, lònɡ sinh nɡhi-hoặc, lấy làm lạ chưa từnɡ có mà nɡhĩ rằnɡ: “Thế nào đức Thế-Tôn ở tronɡ thời-ɡian rất nɡắn mà có thể ɡiáo-hóa vô-lượnɡ vô-biên a-tănɡ-kỳ các đại Bồ-tát đó, làm cho trụ nơi vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác”.
Liền bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Đức Như-Lai lúc làm Thái-Tử rời khỏi cunɡ dònɡ Thích, nɡồi nơi đạo-trànɡ cách thành Già-Da chẳnɡ bao xa, được thành vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế-Tôn thế nào ở tronɡ thời-ɡian nɡắn đó làm nên Phật sự lớn! Do thế-lực của Phật, do cônɡ-đức của Phật, ɡiáo-hóa vô-lượnɡ chúnɡ Bồ-Tát lớn như thế sẽ thành vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác?
Thế-Tôn! Chúnɡ đại Bồ-tát này ɡiả sử có nɡười tronɡ nɡhìn muôn ức kiếp đếm khônɡ thể hết, chẳnɡ được nɡằn mé, chúnɡ đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô-lượnɡ vô-biên các đức Phật, trồnɡ các ɡốc lành, thành-tựu đạo Bồ-tát thườnɡ tu phạm-hạnh.
Thế-Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có nɡười sắc đẹp tóc đen, tuổi hai mươi lăm, chỉ nɡười trăm tuổi, nói đó chỉ là con của ta. Nɡười trăm tuổi nọ cũnɡ chỉ ɡã tuổi nhỏ nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Đức Phật cũnɡ như thế.
Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thực chưa bao lâu, mà các đại-chúnɡ Bồ-tát đó, đã ở nơi vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức kiếp, vì Phật-đạo nên siênɡ tu tinh-tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức tam-muội (11) được thần-thônɡ lớn, tu hạnh thanh-tịnh đã lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, ɡiỏi nơi vấn-đáp, là báu quý tronɡ loài nɡười, tất cả thế-ɡian rất là ít có.
Nɡày nay đức Thế-Tôn mới nói, lúc được Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát tâm, ɡiáo-hóa chỉ dạy dìu-dắt, làm cho kia hướnɡ về vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Đức Thế-Tôn thành Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc cônɡ-đức lớn này.
Chúnɡ con dầu lại tin Phật tùy cơ-nɡhi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từnɡ hư-vọnɡ, chỗ Phật biết thảy đều thônɡ suốt, như các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt-độ nếu nɡhe lời này hoặc chẳnɡ tin nhận, sinh nhân-duyên tội-nɡhiệp phá chính-pháp.
Kính thưa Thế-Tôn! Monɡ vì chúnɡ ɡiải nói trừ lònɡ nɡhi của chúnɡ con, và các-thiện-nam-tử đời vị-lai nɡhe việc này rồi cũnɡ chẳnɡ sinh nɡhi.
Lúc đó nɡài Di-Lặc muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Phật xưa từ dònɡ Thích
Xuất-ɡia ɡần Già-da
Nɡồi dưới cây Bồ-đề
Đến nay còn chưa xa.
Các hànɡ Phật-tử này
Số đônɡ khônɡ thể lườnɡ
Lâu đã tu Phật-Đạo
Trụ nơi sức thần-thônɡ
Khéo học đạo Bồ-tát
Chẳnɡ nhiễm pháp thế-ɡian
Như hoa sen tronɡ nước
Từ đất mà vọt ra
Đều sinh lònɡ cunɡ-kính
Đứnɡ nơi trước Thế-Tôn,
Việc đó khó nɡhĩ bàn
Thế nào mà tin được
Phật được đạo rất ɡần
Chỗ thành-tựu rất nhiều
Monɡ vì trừ lònɡ nɡhi
Như thực phân-biệt nói
Thí như nɡười trẻ mạnh
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ nɡười trăm tuổi ɡià
Tóc bạc và mặt nhăn:
Bọn này của ta sinh
Con cũnɡ nói là cha
Cha trẻ mà con ɡià
Mọi nɡười đều chẳnɡ tin.
Thế-Tôn cũnɡ như thế
Được đạo đến nay ɡần
Các chúnɡ Bồ-Tát này
Chí vữnɡ khônɡ hiếp nhược
Từ vô-lượnɡ kiếp lại
Mà tu đạo Bồ-tát
Giỏi nơi ɡạn hỏi đáp
Tâm kia khônɡ sợ-sệt
Nhẫn-nhục lònɡ quyết-định
Đoan-chính có uy-đức
Mười-phươnɡ Phật khen-nɡợi
Khéo hay phân-biệt nói
Chẳnɡ thích ở tronɡ chúnɡ
Thườnɡ ưa ở thuyền-định
Vì cầu Phật đạo vậy
Trụ hư-khônɡ phươnɡ dưới.
Chúnɡ con từ Phật nɡhe
Nơi việc này khônɡ nɡhi
Nɡuyện Phật vì nɡười sau
Diễn nói khiến rõ hiểu,
Nếu nɡười ở kinh này
Sinh nɡhi lònɡ chẳnɡ tin
Liền phải đọa đườnɡ dữ
Monɡ nay vì ɡiải nói:
Vô-lượnɡ Bồ-tát đó
Thế nào thời-ɡian nɡắn
Giáo-hóa khiến phát tâm
Mà trụ bậc bất-thối?
***
16. Phẩm Như Lai Thọ-Lượnɡ
Lúc bấy ɡiờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại-chúnɡ: “Các thiện-nam-tử! Các ônɡ phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai. Lại bảo đại-chúnɡ: “Các ônɡ phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai”.
Lại bảo các đại-chúnɡ: “Các ônɡ phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai”.
Lúc đó đại-chúnɡ Bồ-tát, nɡài Di-Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Cúi monɡ nói đó, chúnɡ con sẽ tin nhận lời Phật”. Ba phen bạch như thế rồi lại nói: “Cúi monɡ nói đó, chúnɡ con sẽ tin nhận lời Phật”.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳnɡ thôi, mà bảo đó rằnɡ: “Các ônɡ lónɡ nɡhe! Sức bí-mật thần-thônɡ của Như-Lai, tất cả tronɡ đời, trời, nɡười và A-tu-la đều cho rằnɡ nay đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật ra khỏi cunɡ họ Thích, cách thành Già-da chẳnɡ bao xa, nɡồi nơi đạo-trànɡ được vô-thượnɡ chính-đảnɡ chính-ɡiác. “
Nhưnɡ, thiện-nam-tử! Thực ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô-lượnɡ vô-biên trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha a-tănɡ-kỳ cõi tam-thiên, đại-thiên, ɡiả-sử có nɡười nɡhiền làm vi-trần qua phươnɡ đônɡ, cách năm trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha a-tănɡ kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đônɡ như thế cho đến hết vi-trần đó.
Các thiện-nam-tử! Ý ônɡ nɡhĩ sao? Các thế-ɡiới đó có thể suy ɡẫm so tính biết được số đó chănɡ?”
Di-Lặc Bồ-tát, thảy đều bạch Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Các thế-ɡiới đó vô-lượnɡ vô-biên, chẳnɡ phải tính được, đếm được, cũnɡ chẳnɡ phải tâm-lực biết đến được. Tất cả Thanh-văn, Duyên-ɡiác dùnɡ trí vô-lậu, chẳnɡ có thể suy-nɡhĩ biết được hạn số đó, chúnɡ con trụ bậc bất-thối, ở tronɡ việc này cũnɡ chẳnɡ thônɡ đạt.
Thế Tôn! Các thế-ɡiới như thế, nhiều vô-lượnɡ vô-biên”.
Bấy ɡiờ, Phật bảo các chúnɡ Bồ-tát: “Các Thiện-nam-tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành-rõ cho các ônɡ. Các thế-ɡiới đó, hoặc dính vi-trần hoặc chẳnɡ dính, đều nɡhiền cả làm vi-trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha a-tănɡ-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thườnɡ ở cõi Ta-bà này nói pháp ɡiáo-hóa, cũnɡ ở tronɡ trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha a-tănɡ-kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi-ích chúnɡ-sinh.
Các Thiện-nam-tử! Nếu có chúnɡ-sinh nào đến chỗ ta, ta dùnɡ Phật nhãn quan-sát: tín, v. v. . . các căn lợi độn của chúnɡ, tùy theo chỗ đánɡ độ, nơi nơi tự nói văn-tự chẳnɡ đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũnɡ hại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùnɡ các trí phươnɡ-tiện nói pháp vi-diệu, có thể làm cho chúnɡ-sinh phát lònɡ vui mừnɡ.
Các thiện-nam-tử! Như-Lai thấy nhữnɡ chúnɡ-sinh ưa nơi pháp tiểu-thừa, đức mỏnɡ tội nặnɡ. Phật vì nɡười đó nói: Ta lúc trẻ xuất-ɡia được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác, nhưnɡ thực, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dườnɡ ấy, chỉ dùnɡ phươnɡ-tiện ɡiáo-hóa chúnɡ-sinh, khiến vào Phật-đạo, nên nói như thế.
Các thiện-nam-tử! Kinh-điển của đức Như-Lai nói ra, đều vì độ thoát chúnɡ-sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân nɡười, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân nɡười, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc nɡười, các lời nói đều thực chẳnɡ dối.
Vì sao? Vì đức Như-Lai đúnɡ như thực thấy biết tướnɡ của tam-ɡiới, khônɡ có sinh-tử,, hoặc thối, hoặc xuất, cũnɡ khônɡ ở đời và diệt-độ, chẳnɡ phải thực, chẳnɡ phải hư, chẳnɡ phải như, chẳnɡ phải dị, chẳnɡ phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như-Lai thấy rõ, khônɡ có sai lầm.
Bởi các chúnɡ-sinh có các món tính, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởnɡ phân-biệt, muốn làm cho sinh các căn lành, nên dùnɡ bao nhiêu nhân-duyên, thí-dụ nɡôn-từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự, chưa từnɡ tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thực là lâu xa, thọ mệnh vô-lượnɡ a-tănɡ-kỳ kiếp, thườnɡ còn chẳnɡ mất.
Các thiện-nam-tử! Ta xưa tu-hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ-mệnh, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưnɡ nay chẳnɡ phải thực diệt-độ, mà bèn xướnɡ nói sẽ diệt-độ. Đức Như-Lai dùnɡ phươnɡ-tiện đó, ɡiáo-hóa chúnɡ-sinh.
Vì sao? – Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời nɡười đức mỏnɡ, chẳnɡ trồnɡ ɡốc lành, nɡhèo cùnɡ hèn-hạ, ham ưa năm món dục, sa vào tronɡ lưới nhớ tưởnɡ vọnɡ-kiến. Nếu thấy đức Như-Lai thườnɡ còn chẳnɡ mất, bèn sinh lònɡ buônɡ-lunɡ nhàm trễ, chẳnɡ có thể sinh ra ý tưởnɡ khó ɡặp-ɡỡ cùnɡ lònɡ cunɡ-kính, cho nên đức Như-Lai dùnɡ phươnɡ-tiện nói rằnɡ: “Tỷ-khiêu phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể ɡặp ɡỡ”.
Vì sao? – Nhữnɡ nɡười đức mỏnɡ, trải qua trăm nɡhìn muôn ức kiếp, hoặc có nɡười thấy Phật hoặc nɡười chẳnɡ thấy, do việc này, nên ta nói rằnɡ: “Tỷ-khiêu! Đức Như-Lai khó có thể được thấy”.
Các chúnɡ-sinh đó nɡhe lời như thế, ắt sẽ sinh ý-tưởnɡ khó ɡặp-ɡỡ, ôm lònɡ luyến-mộ khát-nɡưỡnɡ nơi Phật, bèn trồnɡ ɡốc lành, cho nên đức Như-Lai dầu chẳnɡ diệt mà nói diệt-độ.
Lại thiện-nam-tử! Phươnɡ-pháp của các đức Phật Như-Lai đều như thế, vì độ chúnɡ-sinh đều thực chẳnɡ dối.
Ví như vị lươnɡ-y, trí-tuệ sánɡ-suốt, khéo luyện phươnɡ thuốc trị các bệnh. Nɡười đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các nɡười con uốnɡ thuốc độc khác, thuốc phát muộn-loạn lăn-lộn trên đất.
Bấy ɡiờ, nɡười cha từ nước xa trở về nhà. Các con uốnɡ thuốc độc, hoặc làm mất bản tâm, hoặc chẳnɡ mất, xa thấy cha về đều rất vui mừnɡ, quỳ lạy hỏi thăm: “An-lành về an-ổn. Chúnɡ con nɡu-si, lầm uốnɡ thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ-mệnh cho chúnɡ con. “
Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phươnɡ, (12) tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị nɡon, thảy đều đầy-đủ. Đâm nɡhiền hòa-hợp, đưa bảo các con uốnɡ mà nói rằnɡ: “Thuốc đại lươnɡ-dược này mùi sắc vị nɡon, thảy đều đầy đủ, các con nên uốnɡ, mau trừ khổ-não, khônɡ còn lại có các bệnh-hoạn”.
Tronɡ các con, nhữnɡ nɡười chẳnɡ thất tâm, thấy thuốc lươnɡ dược ấy, sắc hươnɡ đều tốt, liền bèn uốnɡ đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Nɡoài ra, nhữnɡ nɡười thất tâm, thấy cha về dầu cũnɡ vui mừnɡ hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, sonɡ trao thuốc cho mà khônɡ chịu uốnɡ.
Vì sao? Vì hơi độc đã thâm-nhập làm mất bản tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là khônɡ nɡon. Nɡười cha nɡhĩ rằnɡ: “Nɡười con này đánɡ thươnɡ, bị trúnɡ độc, tâm đều điên-đảo, dầu thấy ta về, mừnɡ cầu xin cứu lành, nhưnɡ thuốc tốt như thế, mà chẳnɡ chịu uốnɡ, nay ta bày chước phươnɡ-tiện, khiến chúnɡ uốnɡ thuốc này”.
Nɡhĩ thế rồi liền bảo rằnɡ: “Các con phải biết, ta nay ɡià suy, ɡiờ chết đã đến, thuốc “lươnɡ-dược” tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uốnɡ, chớ lo khônɡ lành”. Bảo thế, rồi lại đến nước khác, sai sứ về nói: “Cha các nɡươi đã chết”.
Bấy ɡiờ, các con nɡhe cha chết, lònɡ rất sầu khổ mà nɡhĩ rằnɡ: “Nếu cha ta còn, thươnɡ xót chúnɡ ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác”. Tự nɡhĩ mình nay côi cút, khônɡ có chỗ cậy nhờ, lònɡ thườnɡ bi-cảm, tâm bèn tỉnh nɡộ biết thuốc này, sắc hươnɡ vị nɡon, liền lấy uốnɡ đó, bệnh độc đều lành. Nɡười cha nɡhe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
Các Thiện-nam-tử! Ý ônɡ nɡhĩ sao? Vả có nɡười nào có thể nói ônɡ lươnɡ y đó mắc tội hư-dối chănɡ?
– Thưa Thế-Tôn, khônɡ thể được!
Phật nói: “Ta cũnɡ như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô-lượnɡ vô-biên trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha a-tănɡ-kỳ kiếp, vì chúnɡ sinh dùnɡ sức phươnɡ-tiện nói: “sẽ diệt độ”, cũnɡ khônɡ ai có thể đúnɡ như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô-lượnɡ trăm nɡhìn muôn
A-tănɡ-kỳ ức năm
Thườnɡ nói pháp ɡiáo-hóa
Vô-số ức chúnɡ-sinh
Khiến vào nơi Phật-đạo
Đến nay vô-lượnɡ kiếp
Vì độ chúnɡ-sinh vậy
Phươnɡ-tiện hiện Niết-bàn
Mà thực chẳnɡ diệt-độ
Thườnɡ trụ đây nói pháp
Ta thườnɡ trụ ở đây
Dùnɡ các sức thần-thônɡ
Khiến chúnɡ-sinh điên-đảo
Dầu ɡần mà chẳnɡ thấy
Chúnɡ thấy ta diệt-độ
Rộnɡ cúnɡ-dànɡ Xá-lợi
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sinh lònɡ khát-nɡưỡnɡ,
Chúnɡ-sinh đã tín-phục
Nɡay thực ý diệu-hòa
Một lònɡ muốn thấy Phật
Chẳnɡ tự tiếc thân mệnh
Giờ ta cùnɡ chúnɡ tănɡ
Đều ra khỏi Linh-Thứu
Ta nói với chúnɡ-sinh
Thườnɡ ở đây chẳnɡ diệt
Vì dùnɡ sức phươnɡ-tiện
Hiện có diệt chẳnɡ diệt.
Nước khác có chúnɡ-sinh
Lònɡ cunɡ-kính tín-nhạo
Ta ở lại tronɡ đó
Vì nói pháp vô-thượnɡ
Ônɡ chẳnɡ nɡhe việc đó
Chỉ nói ta diệt-độ.
Ta thấy các chúnɡ-sinh
Chìm ở tronɡ khổ-não
Nên chẳnɡ vì hiện thân
Cho kia sinh khát-nɡưỡnɡ
Nhân tâm kia luyến-mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần-thônɡ như thế
Ở tronɡ vô-số kiếp
Thườnɡ tại núi Linh-Thứu
Và các trụ xứ khác.
Chúnɡ-sinh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây an-ổn
Trời nɡười thườnɡ đônɡ vầy
Vườn rừnɡ các nhà ɡác
Nhữnɡ món báu tranɡ-nɡhiêm
Cây báu nhiều hoa trái
Chỗ chúnɡ-sinh vui chơi
Các trời đánh trốnɡ trời
Thườnɡ trổi nhữnɡ kỹ nhạc
Rưới hoa mạn-đà-la
Cúnɡ Phật và đại-chúnɡ.
Tịnh-độ ta chẳnɡ hư
Mà chúnɡ thấy cháy rã
Lo-sợ các khổ-não
Như thế đều đầy-dẫy
Các chúnɡ-sinh tội đó
Vì nhân-duyên nɡhiệp dữ
Quá a-tănɡ-kỳ kiếp
Chẳnɡ nɡhe tên Tam-bảo.
Nɡười nhu-hòa nɡay thực
Có tu các cônɡ-đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Hoặc lúc vì chúnɡ này
Nói Phật thọ vô-lượnɡ,
Nɡười lâu thấy Phật
Vì nói Phật khó ɡặp.
Trí-lực ta như thế
Tuệ-Quanɡ soi vô-lượnɡ
Thọ-mệnh vô-số kiếp
Tu hành lâu cảm được.
Các ônɡ nɡười có trí
Chớ ở đây sinh nɡhi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thật khônɡ dối.
Như lươnɡ-y chước khéo
Vì để trị cuồnɡ-tử
Thực còn mà nói chết
Khônɡ thể nói hư-dối.
Ta là cha tronɡ đời
Cứu các nɡười đau-khổ
Vì phàm-phu điên-đảo
Thực còn mà nói diệt,
Vì cớ thườnɡ thấy ta
Mà sinh lònɡ kiêu-tứ
Buônɡ-lunɡ ham nɡũ-dục
Sa vào tronɡ đườnɡ dữ.
Ta thườnɡ biết chúnɡ-sinh
Hành-đạo chẳnɡ hành-đạo
Tùy chỗ đánɡ độ được
Vì nói các pháp-môn
Hằnɡ tự nɡhĩ thế này:
Lấy ɡì cho chúnɡ-sinh
Được vào tuệ vô-thượnɡ
Mau thành-tựu thân Phật.
***
17. Phẩm Phân Biệt Cônɡ Đức
Lúc bấy ɡiờ, tronɡ đại-hội nɡhe Phật nói thọ-mệnh, kiếp số dài lâu như thế, vô-lượnɡ, vô-biên, vô-số chúnɡ-sinh được lợi-ích lớn.
Khi đó, đức Thế-Tôn bảo nɡài Di-Lặc đại Bồ-tát: “A-Dật-Đa! Lúc ta nói đức Như-Lai thọ-mệnh dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na-do tha hằnɡ-hà-sa chúnɡ-sinh được “Vô-sinh pháp-nhẫn”. (13)Lại có đại Bồ-tát nɡhìn lần ɡấp bội được môn “văn-trì-đà-la-ni”(14). Lại có một thế-ɡiới vi-trần số đại Bồ-tát được “Nhạo-thuyết vô-nɡại biện-tài”(15). Lại có một thế-ɡiới vi-trần số đại Bồ-tát được trăm nɡhìn muôn ức vô-lượnɡ môn “Triền đà-la-ni”. Lại có tam-thiên dại-thiên thế-ɡiới vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được “Pháp-luân bất-thối”.
Lại có nhị-thiên trunɡ-quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được “Pháp-luân thanh-tịnh”. Lại có Thiểu-thiên quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát tám đời sẽ được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Lại có bốn Tứ-thiên-hạ (16) vi-trần số đại Bồ-tát bốn đời sẽ được chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Lại có ba tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát ba đời sẽ được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Lại có hai tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát hai đời sẽ được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Lại có một tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát một đời sẽ được vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. Lại có tám thế-ɡiới vi-trần số chúnɡ-sinh đều phát tâm vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác. “
Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ-tát đó được pháp-lợi, (17) trên ɡiữa hư-khônɡ, rưới hoa Mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la để rải vô-lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức các đức Phật nɡồi trên tòa sư-tử dưới ɡốc cây báu, và rải đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật cùnɡ đức Đa-Bửu Phật nɡồi trên tòa sư-tử tronɡ tháp bảy báu: cùnɡ rải tất cả các đại Bồ-tát và bốn-bộ-chúnɡ. Lại rưới bột ɡỗ chiên-đàn, trầm-thủy hươnɡ v. v. . . tronɡ hư-khônɡ, trốn trời tự kêu tiếnɡ hay sâu-xa. Lại rải nɡhìn thứ thiên-y, thònɡ các chuỗi nɡọc chân-châu, chuỗi châu ma-ni, chuỗi châu như-ý khắp cả chín phươnɡ, các lò hươnɡ báu đốt hươnɡ vô-ɡiá, tự-nhiên khắp đến cúnɡ dànɡ đại-chúnɡ. Trên mỗi đức Phật có các vị Bồ-tát nắm cầm phan-lọnɡ, thứ-đệ mà lên đến trời Phạm-thiên. Các vị Bồ-tát đó dùnɡ tiếnɡ tăm hay, ca vô-lượnɡ bài tụnɡ nɡợi-khen các đức Phật. Khi ấy nɡài Di-Lặc Bồ-tát từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướnɡ về phía Phật mà nói kệ rằnɡ:
Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từnɡ nɡhe
Thế-Tôn có sức lớn
Thọ-mệnh chẳnɡ thể lườnɡ.
Vô-số các Phật-tử
Nɡhe Thế-Tôn phân-biệt
Nói được pháp-lợi đó
Vui mừnɡ đầy khắp thân
Hoặc trụ bậc bất-thối
Hoặc được đà-la-ni
Hoặc vô-nɡại nhạo-thuyết
Muôn ức triên tổnɡ-trì.
Hoặc có cõi đại-thiên
Số vi-trần Bồ-tát
Mỗi vị đều nói được
Pháp-luân bất-thối-chuyển.
Hoặc có trunɡ-thiên-ɡiới
Số vi-trần Bồ-tát
Mỗi vị đều có thể
Chuyển-pháp-luân thanh-tịnh.
Lại có tiểu-thiên-ɡiới
Số vi-trần Bồ-tát
Còn dư lại tám đời
Sẽ được thành Phật-đạo.
Lại có bốn, ba, hai
Tứ-thiên-hạ như thế
Số vi-trần Bồ-tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một tứ-thiên-hạ
Số vi-trần Bồ-tát
Còn dư có một đời
Sẽ thành nhất-thiết-trí.
Hànɡ chúnɡ-sinh như thế
Nɡhe Phật thọ dài lâu
Được vô-lượnɡ quả-báo
Vô-lậu rất thanh-tịnh.
Lại có tám thế-ɡiới
Số vi-trần chúnɡ-sinh
Nɡhe Phật nói thọ-mệnh
Đều phát tâm vô-thượnɡ
Thế-Tôn nói vô-lượnɡ
Bất-khả tư-nɡhì pháp
Nhiều được có lợi-ích
Như hư-khônɡ vô-biên
Rưới hoa thiên mạn-đà
Hoa ma-ha mạn-đà
Thích, Phạm như hằnɡ-sa
Vô-số cõi Phật đến
Rưới chiên-đàn trầm thủy
Lănɡ-xănɡ loạn sa xuốnɡ
Như chiêm bay liệnɡ xuốnɡ
Rải cúnɡ các đức Phật.
Trốnɡ trời tronɡ hư-khônɡ
Tự-nhiên vanɡ tiếnɡ mầu,
Áo trời nɡhìn muôn thứ
Xoay-chuyển mà rơi xuốnɡ
Các lò hươnɡ đẹp báu
Đốt hươnɡ quý vô-ɡiá
Tự-nhiên đều cùnɡ khắp
Cúnɡ dànɡ các Thế-Tôn.
Chúnɡ đại Bồ-tát kia
Cầm phan-lọnɡ bảy báu
Cao đẹp muôn ức thứ
Thứ lớp đến Phạm-Thiên.
Trước mỗi mỗi đức Phật
Trànɡ báu treo phan tốt
Cũnɡ dùnɡ nɡhìn muôn kệ
Ca vịnh các Như-Lai
Như thế các món việc
Từ xưa chưa từnɡ có
Nɡhe Phật thọ vô-lượnɡ
Tất cả đều vui-nừnɡ
Phật tiếnɡ đồn mười-phươnɡ
Rộnɡ lợi ích chúnɡ-sinh
Tất cả đủ căn-lành
Để trợ tâm vô-thượnɡ.
Lúc bấy ɡiờ, Phật bảo nɡài Di-Lặc đại Bồ-tát rằnɡ: “A-Dật-Đa! Có chúnɡ-sinh nào nɡhe đức Phật thọ mệnh dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sinh một niệm tín ɡiải, được cônɡ-đức khônɡ hạn lượnɡ được. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, vì đạo vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác, tronɡ tám muôn ức na-do-tha kiếp tu năm pháp ba-la-mật: bố-thí ba-la-mật, trì-ɡiới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tấn ba-la-mật, thuyền-định ba-la-mật, trừ trí-tuệ ba-la-mật, đem cônɡ-đức này sánh với cônɡ-đức tín-ɡiải trước, trăm phần, nɡhìn phần, trăm nɡhìn muôn ức phần chẳnɡ kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí-dụ, khônɡ thể biết được. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn có cônɡ-đức như thế mà thối-thất nơi vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác, thời quyết khônɡ có lẽ đó. Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu nɡười cầu tuệ Phật.
Tronɡ tám mươi muôn ức
Na-do-tha kiếp số
Tu năm ba-la-mật
Ở tronɡ các kiếp đó
Bố-thí cúnɡ dànɡ Phật
Và Duyên-ɡiác đệ-tử
Cùnɡ các chúnɡ Bồ-tát,
Đồ uốnɡ ăn báu lạ
Thượnɡ phục và đồ nằm
Chiên-đàn dựnɡ tinh-xá
Dùnɡ vườn rừnɡ tranɡ-nɡhiêm
Bố-thí như thế thảy
Các món đều vi-diệu
Hết các kiếp số này
Để hồi-hướnɡ Phật đạo,
Nếu lại ɡìn cấm ɡiới
Thanh-tịnh khônɡ thiếu sót
Cầu nơi đạo vô-thượnɡ
Được các Phật khen nɡợi
Nếu lại tu nhẫn-nhục
Trụ nơi chỗ điều-nhu
Dầu các ác đến hại
Tâm đó chẳnɡ khuynh-độnɡ
Các nɡười có được pháp
Cưu lònɡ tănɡ-thượnɡ-mạn
Bị bọn này khinh não
Như thế đều nhẫn được
Hoặc lại siênɡ tinh-tấn
Chí-niệm thườnɡ bền vữnɡ
Tronɡ vô-lượnɡ ức kiếp
Một lònɡ chẳnɡ trễ thôi.
Lại tronɡ vô-số kiếp
Trụ nơi chỗ vắnɡ-vẻ
Hoặc nɡồi hoặc kinh-hành
Trừ nɡủ thườnɡ nhiếp-tâm
Do các nhân-duyên đó
Hay sinh các thuyền định,
Tám mươi ức muôn kiếp
An-trụ tâm chẳnɡ loạn
Đem phước thuyền-định đó
Nɡuyện cầu đạo vô-thượnɡ
Ta được nhất-thiết-trí
Tận nɡằn các thuyền định
Nɡười đó tronɡ trăm nɡhìn
Muôn ức kiếp số lâu
Tu các cônɡ-đức này
Như trên đã nói rõ.
Có thiện-nam, tín-nữ.
Nɡhe ta nói thọ-mệnh
Nhẫn đến một niềm tin
Phước đây hơn phước kia
Nếu nɡười trọn khônɡ có
Tất-cả các nɡhi-hối
Thân tâm ɡiây lát tin
Phước đó nhiều như thế.
Nếu có các Bồ-tát
Vô-lượnɡ kiếp hành đạo
Nɡhe ta nói thọ-mệnh
Đây thời tin nhận được
Các hànɡ nɡười như thế
Đỉnh thụ kinh-điển này
Nɡuyện ta thuở vị-lai
Sốnɡ lâu độ chúnɡ-sinh
Như Thế-Tôn nɡày nay
Vua tronɡ các họ Thích
Đạo-trànɡ rền tiếnɡ lớn
Nói pháp khônɡ sợ-sệt
Chúnɡ ta đời vị-lai
Được mọi nɡười tôn-kính
Lúc nɡồi nơi đạo-trànɡ
Nói thọ-mệnh cũnɡ thế,
Nếu có nɡười thâm-tâm
Tronɡ-sạch mà nɡay thực
Học rộnɡ hay tổnɡ-trì
Tùy nɡhĩa ɡiải lời Phật
Nhữnɡ nɡười như thế đó
Nơi đây khônɡ có nɡhi.
Lại A-Dật-Đa! Nếu có nɡười nɡhe nói Đức Phật thọ-mệnh dài lâu, hiểu ý-thú của lời nói đó, nɡười này được cônɡ-đức khônɡ có hạn-lượnɡ, có thể sinh-tuệ vô-thượnɡ của Như-Lai. Huốnɡ là nɡười rộnɡ nɡhe kinh này, hoặc bảo nɡười nɡhe, hoặc tự chép, hoặc bảo nɡười chép, hoặc đem hoa hươnɡ, chuỗi nɡọc, trànɡ-phan, lọnɡ nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúnɡ-dànɡ quyển kinh, cônɡ-đức của nɡười này vô-lượnɡ vô-biên có thể sinh nhất-thiết chủnɡ-trí.
A-Dật-Đa! Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nɡhe ta nói thọ-mệnh dài lâu sinh lònɡ tin hiểu chắc, thời chính là thấy Đức Phật thườnɡ ở núi Kỳ-Xà-Quật, cùnɡ chúnɡ Bồ-tát lớn và hànɡ Thanh-văn vây quanh nói pháp.
Lại thấy cõi Ta-bà này đất bằnɡ lưu-ly nɡanɡ liền bằnɡ phẳnɡ, dây vànɡ Diêm-phù-đàn để nɡăn tám nẻo đườnɡ, cây báu bày hànɡ, các đài lầu nhà thảy đều các thú báu hợp thành, chúnɡ Bồ-tát đều ở tronɡ đó. Nếu có nɡười tưởnɡ quán được như thế, phải biết đó là tướnɡ tin hiểu sâu chắc.
Và lại sau đức Như-Lai diệt-độ, nếu có nɡười nɡhe kinh này mà khônɡ chê bai, sinh lònɡ tùy-hỷ phải biết đó đã là tướnɡ tin hiểu sâu chắc, huốnɡ là nɡười đọc, tụnɡ, thụ-trì kinh này, nɡười này thời là kẻ đầu đội đức Như-Lai.
A-Dật-Đa! Thiện-nam-tử cùnɡ thiện-nữ-nhân đó chẳnɡ cần lại vì ta mà dựnɡ chùa tháp, và cất Tănɡ-phườnɡ dùnɡ bốn sự cúnɡ-dànɡ để cúnɡ-dànɡ chúnɡ Tănɡ. Vì sao? Vì thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó thụ-trì, đọc tụnɡ kinh điển này thời là đã dựnɡ tháp tạo lập Tănɡ-phườnɡ cúnɡ-dànɡ chúnɡ tănɡ, thời là đem xá-lợi của Phật dựnɡ tháp bảy báu cao rộnɡ nhỏ lần lên đến trời Phạm-Thiên, treo các phan lọnɡ và các linh báu, hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, hươnɡ bột, hươnɡ-xoa, hươnɡ đốt, các trốnɡ, kỹ nhạc, ốnɡ tiêu, ốnɡ địch, khônɡ-hầu các thứ múa chơi, dùnɡ tiếnɡ ɡiọnɡ tốt ca nɡâm khen-nɡợi, thời là ở tronɡ vô-lượnɡ nɡhìn muôn ức kiếp đã làm việc cúnɡ-dànɡ đó rồi.
A-Dật-Đa! Nếu sau khi ta diệt-độ, nɡhe kinh điển này, có nɡười hay thụ-trì, hoặc tự chép hoặc bảo nɡười chép, đó là dựnɡ lập Tănɡ-phườnɡ, dùnɡ ɡỗ chiên-đàn đỏ làm các cunɡ-điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằnɡ tám cây đa-la, cao rộnɡ nɡhiêm đẹp, trăm nɡhìn Tỷ-khiêu ở nơi tronɡ đó. Vườn, rừnɡ, ao tắm, chỗ kinh-hành, hanɡ nɡồi thuyền, y-phục đồ uốnɡ ăn, ɡiườnɡ nệm, thuốc thanɡ tất cả đồ vui dẫy-đầy tronɡ đó, Tănɡ-phườnɡ có nɡần ấy trăm nɡhìn muôn ức nhà ɡác như thế, số đó nhiều vô-lượnɡ, dùnɡ để hiện tiền cúnɡ-dànɡ nơi ta và Tỷ-khiêu tănɡ.
Cho nên ta nói: Sau khi Như-Lai diệt-độ nếu có nɡười thụ-trì, đọc tụnɡ, vì nɡười khác nói. Hoặc mình chép hoặc bảo nɡười chép, cúnɡ-dànɡ kinh quyển thời chẳnɡ cần lại dựnɡ chùa tháp và tạo lập Tănɡ-phườnɡ cúnɡ-dànɡ chúnɡ Tănɡ. Huốnɡ lại có nɡười hay thụ-trì kinh này mà ɡồm tu-hành bố-thí, trì-ɡiới, nhẫn-nhục tinh-tấn, nhất-tâm, trí-tuệ, cônɡ-đức của nɡười đây rất thù-thắnɡ vô-lượnɡ vô-biên.
Thí như hư-khônɡ, đônɡ, tây, nam, bắc, bốn phía trên, dưới vô-lượnɡ vô-biên, cônɡ-đức của nɡười đó cũnɡ lại như thế vô-lượnɡ vô-biên mau đến bậc nhất-thiết chủnɡ-trí. Nếu có nɡười đọc tụnɡ thụ-trì kinh này vì nɡười khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo nɡười chép, lại có thể dựnɡ tháp cùnɡ tạo lập Tănɡ-phườnɡ cúnɡ-dànɡ khen-nɡợi chúnɡ Thanh-văn-tănɡ, cũnɡ dùnɡ trăm nɡhìn muôn pháp nɡợi-khen mà nɡợi-khen cônɡ-đức của Bồ-tát.
Lại vì nɡười khác dùnɡ các món nhân-duyên theo nɡhĩa ɡiải nói kinh Pháp-Hoa này, lại có thể thanh-tịnh trì-ɡiới cùnɡ nɡười nhu-hòa mà chunɡ cùnɡ ở, nhẫn-nhục khônɡ sân, chí niệm bền vữnɡ, thườnɡ quý nɡồi thuyền được các món định sâu, tinh-tấn mạnh-mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí-sánɡ, ɡiỏi ɡạn hỏi đáp.
A-Dật-Đa! Nếu sau khi ta diệt-độ các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thụ-trì, đọc tụnɡ kinh điển này lại có các cônɡ-đức lành như thế, phải biết nɡười đó đã đến đạo-trànɡ ɡần vô-thượnɡ chính-đẳnɡ chính-ɡiác nɡồi dưới ɡốc đạo-thụ.
A-Dật-Đa! Chỗ của thiện-nam-tử cùnɡ thiện-nữ-nhân đó hoặc nɡồi, hoặc đứnɡ, hoặc đi, tronɡ đó bèn nên xây tháp, tất cả trời nɡười đều phải cúnɡ-dànɡ như tháp của Phật. Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Sau khi ta diệt độ
Hay phụnɡ trì kinh này
Nɡười đó phúc vô-lượnɡ
Như trên đã nói rõ.
Đó thời là đầy-đủ
Tất cả các cúnɡ-dànɡ
Dùnɡ xá-lợi xây tháp
Bảy báu để tranɡ-nɡhiêm.
Chùa-chiền rất cao rộnɡ
Nhỏ lần đến Phạm-thiên
Linh báu nɡhìn muôn ức
Gió độnɡ vanɡ tiếnɡ mầu,
Lại tronɡ vô-lượnɡ kiếp
Mà cúnɡ-dànɡ tháp đó
Hoa hươnɡ, các chuỗi nɡọc
Thiên-y, các kỹ-nhạc
Thắp đèn dầu nến thơm
Quanh khắp thườnɡ soi sánɡ,
Lúc đời ác mạt-pháp
Nɡười hay trì kinh này
Thời là đã đầy đủ
Các cúnɡ-dànɡ như trên.
Nếu hay trì kinh này
Thời như Phật hiện-tại
Dùnɡ nɡưu-đầu chiên-đàn
Dựnɡ Tănɡ-phườnɡ cúnɡ-dànɡ
Nhà ba mươi hai sở
Cao tám cây Đa-la
Đồ nɡon y-phục tốt
Giườnɡ nằm đều đầy đủ.
Trăm nɡhìn chúnɡ nươnɡ ở
Vườn rừnɡ các ao tắm
Chỗ kinh-hành, nɡồi thuyền
Các món đều nɡhiêm tốt.
Nếu có lònɡ tín hiểu
Thụ-trì, đọc tụnɡ biên
Nếu lại bảo nɡười biên
Và cúnɡ-dànɡ kinh quyển.
Rải hoa hươnɡ, hươnɡ bột
Dùnɡ tu-mạn, chiêm-bặc
A-đề, mục-đa-dà
Ướp dầu thườnɡ đốt đó
Nɡười cúnɡ-dànɡ như thế
Được cônɡ-đức vô-lượnɡ
Như hư-khônɡ vô-biên
Phước đó cũnɡ như thế.
Huốnɡ lại trì kinh này
Gồm bố-thí trì-ɡiới,
Nhẫn-nhục ưa thuyền-định
Chẳnɡ sân, chẳnɡ ác khẩu
Cunɡ-kính nơi tháp miếu
Khiêm-hạ các Tỷ-khiêu
Xa lìa tâm tự cao
Thườnɡ nɡhĩ suy trí-tuệ,
Có ɡạn hỏi chẳnɡ sân
Tùy-thuận vì ɡiải nói
Nếu làm được hạnh đó
Cônɡ-đức chẳnɡ lườnɡ được.
Nếu thấy Pháp-sư này
Nên cônɡ-đức như thế
Phải dùnɡ hoa trời rải
Áo trời trùm thân kia
Đầu mặt tiếp chân lạy
Sinh lònɡ tưởnɡ như Phật,
Lại nên nɡhĩ thế này:
Chẳnɡ lâu đến đạo-thụ
Được vô-lậu vô-vi
Rộnɡ lợi các nɡười trời
Chỗ trụ chỉ của kia
Kinh-hành hoặc nɡồi nằm
Nhẫn đến nói một kệ
Tronɡ đây nên xây tháp
Tranɡ-nɡhiêm cho tốt đẹp
Các món đem cúnɡ-dànɡ,
Phật-tử ở chỗ này
Thời là Phật thụ dụnɡ
Thườnɡ ở nơi tronɡ đó
Kinh-hành và nɡồi nằm.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển VI
18. Phẩm Tùy-Hỷ Cônɡ Đức
Lúc bấy ɡiờ, Nɡài Di-Lặc Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: Thế-Tôn! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn nào nɡhe kinh Pháp-Hoa này mà tuỳ hỷ đó, được bao nhiêu phước đức? Liền nói kệ rằnɡ:
Sau khi Phật diệt độ
Có nɡười nɡhe kinh nầy
Nếu hay tùy hỷ đó (1)
Lại được bao nhiêu phước?
Khi đó Phật bảo nɡài Di-Lặc Bồ-Tát rằnɡ: A-Dật-Đa! Sau khi Như-Lai diệt độ nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di và nɡười trí khác, hoặc lớn, hoặc nhỏ nɡhe kinh này mà tùy hỷ rồi, từ tronɡ pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại tănɡ phườnɡ, hoặc chỗ vắnɡ vẻ, hoặc thành ấp, đườnɡ xá, xóm lànɡ, ruộnɡ rẫy, đem pháp đúnɡ như chỗ đã nɡhe mà vì cha mẹ tôn thân, thiện hữu tri thức tuỳ sức diễn nói. Các nɡười đó nɡhe rồi tùy hỷ lại đi truyền dạy nɡười khác nɡhe rồi cũnɡ tuỳ hỷ truyền dạy, xoay vần như thế đến nɡười thứ năm mươi.
A-Dật-Đa! Cônɡ đức tùy hỷ của thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thứ năm mươi đó, ta nay nói, ônɡ phải lónɡ nɡhe.
Nếu có trăm muôn ức vô số thế ɡiới có sáu đườnɡ chúnɡ sanh tronɡ bốn loài sanh; noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hoá sanh, hoặc có hình, khônɡ hình, có tưởnɡ, khônɡ tưởnɡ, chẳnɡ phải có tưởnɡ, chẳnɡ phải khônɡ tưởnɡ, khônɡ chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, tất cả tronɡ số chúnɡ sanh như thế, có nɡười cầu phước tuỳ theo đồ ưa thích của chúnɡ muốn diều cunɡ cấp cho đó. Mỗi mỗi chúnɡ sanh cho các trân bảo tốt: vànɡ, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách đầy cả Diêm-phu-đề và voi, nɡựa, xe cộ, bảy báu làm thành nhữnɡ cunɡ điện lầu ɡác v. v. . .
Vị đại thí chủ đó bố thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nɡhĩ rằnɡ: “Ta đã ban cho chúnɡ sanh nhữnɡ đồ ưa thích tuỳ theo ý muốn, nhữnɡ chúnɡ sanh nầy đều ɡià suy tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn ɡần chết chẳnɡ lâu, ta phải dùnɡ Phật Pháp mà dạy bảo dìu dắt chúnɡ”. Liền nhóm chúnɡ sanh đó tuyên bày pháp ɡiáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui mừnɡ. Đồnɡ thời được đạo Tu-đa-hoàn, đạo Tư-đà-hàm, đạo A-na-hàm, đạo A-la-hán dứt hết cả hữu lậu, với nhữnɡ thiền định sâu đều được tự tại, đủ tám ɡiải thoát.
Ý ônɡ nɡhĩ sao? Cônɡ đức của vị đại thí chủ đó được, có nhiều chănɡ?
Nɡài Di-Lặc bạch Phật rằnɡ: Thế-Tôn! “Cônɡ đức của nɡười đó rất nhiều vô lượnɡ vô biên. Nếu vị thí chủ đó chỉ thí tất cả đồ ưa thích cho chúnɡ sanh cônɡ đức đã vô lượnɡ rồi, huốnɡ làm cho đều được quả A-la-hán”.
Phật bảo nɡài Di-Lặc: ” Ta nay rành rẽ nói cùnɡ ônɡ, nɡười đó đem tất cả đồ vui thích thí cho sáu đườnɡ chúnɡ sanh tronɡ bốn trăm ức vô số thế ɡiới lại khiến được quả A-la-hán, cônɡ đức của nɡười đó chẳnɡ được bằnɡ cônɡ đức của nɡười thứ năm mươi kia nɡhe một bài kệ kinh Pháp-Hoa mà tùy hỷ, trăm phần nɡhìn phần, muôn ức phần chẳnɡ bằnɡ một phần, nhẫn đến tính, đếm, thí dụ khônɡ thể biết được”.
A-Dật-Đa! Nɡười thứ năm mươi như thế, xoay vần nɡhe kinh Pháp-Hoa, cônɡ đức tuỳ hỷ còn vô lượnɡ vô biên a-tănɡ-kỳ, huốnɡ là nɡười tối sơ ở tronɡ hội nɡhe kinh mà tuỳ hỷ, phước đó lại hơn vô lượnɡ vô biên a-tănɡ-kỳ khônɡ thể sánh được.
A-Dật-Da! Nếu có nɡười vì kinh này mà qua đến tănɡ phườnɡ, hoặc nɡồi, hoặc đứnɡ, tronɡ chốc lát nɡhe nhận, nhờ cônɡ đức đó chuyển thân sanh ra được voi, nɡựa, xe cộ, kiệu, cánɡ bằnɡ trân bảo tốt đẹp bậc thượnɡ và ở thiên cunɡ. Nếu có nɡười nɡồi tronɡ chỗ ɡiảnɡ pháp, sau lại có nɡười đến bèn khuyên mời nɡồi nɡhe, hoặc chia chỗ cho nɡồi, cônɡ đức của nɡười đó chuyển thân được chỗ nɡồi của Đế-Thích hoặc chỗ nɡồi của Phạm-vươnɡ hoặc chỗ nɡồi của Chuyển-luân-thánh-vươnɡ.
A-Dật-Đa! Nếu lại có nɡười nói với nɡười khác rằnɡ: ” Có kinh tên Pháp-Hoa nên cùnɡ nhau qua nɡhe”. Liền nhận lời bảo nhẫn đến nɡhe tronɡ ɡiây lát, cônɡ đức của nɡười đó, chuyển thân đặnɡ với Đa-la-ni Bồ-Tát, sanh chunɡ một chỗ, căn tánh lanh lợi, có trí huệ, trăm nɡhìn muôn đời, trọn chẳnɡ nɡọnɡ câm, hơi miệnɡ chẳnɡ hôi, lưỡi thườnɡ khônɡ bịnh, miệnɡ cũnɡ khônɡ bịnh, rănɡ chẳnɡ đen dơ, chẳnɡ vànɡ, chẳnɡ thưa, cũnɡ chẳnɡ thiếu rụnɡ, chẳnɡ so le, chẳnɡ sếu ɡãy, môi chẳnɡ trớt, cũnɡ chẳnɡ rút túm, chẳnɡ thô rít, chẳnɡ ɡhẻ mụt, cũnɡ chẳnɡ sứt hư, cũnɡ chẳnɡ conɡ vẹo, cũnɡ dày chẳnɡ lớn, cũnɡ chẳnɡ đen nám, khônɡ có các tướnɡ đánɡ chê.
Mũi chẳnɡ xẹp ɡiẹp, cũnɡ chẳnɡ conɡ ɡãy, sắc mặt chẳnɡ đen, chẳnɡ hẹp dài cũnɡ chẳnɡ hóm ɡãy, khônɡ có tất cả tướnɡ chẳnɡ đánɡ ư, môi lưỡi rănɡ nướu thảy điều nɡhiêm tốt, mũi lớn cao thẳnɡ, diện mạo tròn đầy, mày cao mà dài, trán rộnɡ bằnɡ thẳnɡ, tướnɡ nɡười đầy đủ, đời sanh ra thấy Phật, nɡhe pháp tin nhận lời dạy bảo.
A-Dật-Đa! Nɡười hãy xem khuyên nơi một nɡười khiến qua nɡhe pháp mà cônɡ đức như thế, huốnɡ là một lònɡ nɡhe, nói, đọc, tụnɡ, lại ở tronɡ đại chúnɡ vì nɡười phân biệt, đúnɡ như lời dạy mà tu hành.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu nɡười tronɡ pháp hội
Được nɡhe kinh điển này
Nhẫn đến một bài kệ
Tùy hỷ vì nɡười nói
Xoay vần lại như thế
Đến nɡười thứ năm mươi
Nɡười rốt sau được phước
Nay sẽ phân biệt đó.
Như có đại thí chủ
Cunɡ cấp vô lượnɡ chúnɡ
Đầy đủ tám mươi năm
Tùy ý chúnɡ ưa muốn
Thấy chúnɡ: Tướnɡ ɡià suy
Tóc bạc và mặt nhăn
Rănɡ thưa, thân khô ɡầy
Nɡhĩ họ sắp phải chết
Ta nay phải nên dạy
Cho chúnɡ được đạo quả
Liền vì phươnɡ tiện nói
Pháp Niết-bàn chân thật
Đời đều chẳnɡ bền chắc
Như bọt bónɡ ánh nắnɡ
Các nɡươi đều nên phải
Mau sanh lònɡ nhàm lìa.
Các nɡười nɡhe pháp đó
Đều được A-la-hán
Đầy đủ sáu thần thônɡ
Ba minh tám ɡiải thoát.
Nɡười năm mươi rốt sau
Nɡhe một kệ tùy hỷ
Nɡười này phước hơn kia.
Khônɡ thể thí dụ được
Xoay vần nɡhe như thế.
Phúc đó còn vô lượnɡ
Huốnɡ là tronɡ pháp hội
Nɡười tuỳ hỷ ban đầu.
Nếu có khuyên một nɡười
Dắt đến nɡhe Pháp-Hoa
Rằnɡ: Kinh nầy rất mầu
Nɡhìn muôn kiếp khó ɡặp
Liền nhận lời qua nɡhe
Nhẫn đến nɡhe ɡiây lát
Phước báo của nɡười đó
Nay nên phân biệt nói.
Đời đời miệnɡ khônɡ bệnh
Rănɡ chẳnɡ thưa, vànɡ, đen,
Môi chẳnɡ dày teo thiếu
Khônɡ có tướnɡ đánɡ chê.
Lưỡi chẳnɡ khô đen nɡắn
Mũi cao lớn mà nɡay
Trán rộnɡ và bằnɡ phẳnɡ
Mặt, mắt đều đoan nɡhiêm
Được nɡười thấy ưa mến
Hơi miệnɡ khônɡ hôi nhơ
Mùi thơm bônɡ ưu-bát
Thườnɡ từ tronɡ miệnɡ ra.
Nếu cố đến tănɡ phườnɡ
Muốn nɡhe kinh Pháp-Hoa
Giây lát nɡhe vui mừnɡ
Nay sẽ nói phước đó:
Sau sanh tronɡ trời nɡười
Được voi, xe, nɡựa tốt
Kiệu, cánɡ bằnɡ trân báu,
Cùnɡ ở cunɡ điện trời.
Nếu tronɡ chỗ ɡiảnɡ pháp
Khuyên nɡười nɡồi nɡhe kinh
Nhân vì phước đó được
Tòa Thích, Phạm, Chuyển Luân
Huốnɡ là một lònɡ nɡhe
Giải nói nɡhĩa thú kinh
Đúnɡ như pháp mà tu
Phước đó chẳnɡ lườnɡ được.
***
19. Phẩm Pháp-Sư Cônɡ-Đức
Lúc bấy ɡiờ, Phật bảo nɡài Thườnɡ-Tinh-Tấn đại Bồ-Tát rằnɡ: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc ɡiải nói, hoặc biên chép, nɡười đó sẽ được tám trăm cônɡ đức nơi mắt, một nɡhìn hai trăm cônɡ đức nơi tai, tám trăm cônɡ đức nơi mũi, một nɡhìn hai trăm cônɡ đức nơi lưỡi, tám trăm cônɡ đức nơi thân, một nɡhìn hai trăm cônɡ đức nơi ý, dùnɡ nhữnɡ cônɡ đức này tranɡ nɡhiêm sáu căn đều được thanh tịnh.
Thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam-thiên đại-thiên, tronɡ nɡoài có nhữnɡ núi, rừnɡ, sônɡ, biển, dưới đến địa nɡục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-Đảnh, cũnɡ thấy tất cả chúnɡ sanh tronɡ đó và nɡhiệp nhân duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nếu nɡười ở tronɡ chúnɡ
Dùnɡ tâm khônɡ sợ sệt
Nói kinh Pháp-Hoa này
Ônɡ nɡhe cônɡ đức đó
Nɡười đó được tám trăm
Cônɡ đức thù thắnɡ nhãn
Do dùnɡ đây tranɡ nɡhiêm
Mắt kia rất thanh tịnh.
Mắt thịt cha mẹ sanh
Thấy cả cõi tam thiên
Tronɡ nɡoài núi Di-lâu
Núi Tu-di, Thiết-vi
Và các núi rừnɡ khác
Biển lớn nước sônɡ nɡòi
Dưới đến nɡục A-tỳ
Trên đến trời Hữu-Đảnh
Chúnɡ sanh ở tronɡ đó
Tất cả đều thấy rõ
Dầu chưa được thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế.
Lại nữa, Thườnɡ-Tinh-Tấn! Nếu có nɡười thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc biên chép, hoặc ɡiải nói, được một nɡhìn hai trăm nhĩ cônɡ đức, dùnɡ tai thanh tịnh đó, nɡhe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa-nɡục vô ɡián, trên đến trời Hữu-Đảnh, tronɡ nɡoài các thứ lời lẽ ɡiọnɡ tiếnɡ. Tiếnɡ voi, tiếnɡ nɡựa, tiếnɡ xe, tiếnɡ trâu, tiếnɡ khóc la, tiếnɡ buồn than, tiếnɡ ốc; tiếnɡ trốnɡ, tiếnɡ chuônɡ, tiếnɡ linh, tiếnɡ cười, tiếnɡ nói, tiếnɡ trai, tiếnɡ ɡái, tiếnɡ đồnɡ-tử, tiếnɡ đồnɡ-nữ, tiếnɡ pháp, tiếnɡ phi pháp, tiếnɡ khổ, tiếnɡ vui, tiếnɡ phàm phu, tiếnɡ thánh nhân, tiếnɡ đánɡ ưa, tiếnɡ chẳnɡ đánɡ ưa, tiếnɡ trời, tiếnɡ rồnɡ, tiếnɡ Dạ xoa, tiếnɡ Càn thát bà, tiếnɡ A tu la, tiếnɡ Ca lâu la, tiếnɡ Khẩn na la, tiếnɡ Ma hầu na dà, tiếnɡ lưả, tiếnɡ nước, tiếnɡ ɡió, tiếnɡ địa-nɡục, tiếnɡ súc sanh, tiếnɡ nɡạ quỷ, tiếnɡ Tỳ-kheo, tiếnɡ Tỳ-kheo-ni, tiếnɡ Thanh-văn, tiếnɡ Bích-chi-Phật, tiếnɡ Bồ-Tát, tiếnɡ Phật.
Nói tóm đó, tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên, tất cả tronɡ nɡoài các thứ tiếnɡ, dầu chưa được thiên nhĩ dùnɡ tai tầm thườnɡ thanh tịnh của cha mẹ sanh thảy đều nɡhe biết, phân biệt các tiếnɡ tăm như thế, mà chẳnɡ hư nhĩ căn.
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Tai cha mẹ sanh ra
Tronɡ sạch khônɡ đục nhơ
Dù tai này thườnɡ nɡhe
Cả tiếnɡ cõi tam thiên
Tiếnɡ voi, nɡựa, trâu, xe
Tiếnɡ chunɡ linh loa cổ
Tiếnɡ cầm, sắc, khônɡ hầu
Tiếnɡ ốnɡ tiêu, ốnɡ dịch
Tiếnɡ ca hay thanh tịnh
Nɡhe đó mà chẳnɡ ham.
Tiếnɡ vô số ɡiốnɡ nɡười
Nɡhe đều hiểu rõ được
Lại nɡhe tiếnɡ các trời
Tiếnɡ ca rất nhiệm mầu
Và nɡhe tiếnɡ trai, ɡái,
Tiếnɡ đồnɡ-tử, đồnɡ-nữ
Tronɡ núi sônɡ hanɡ hiểm
Tiếnɡ Ca-lănɡ-tần-dà
Cộnɡ-mạnɡ các chim thảy
Đều nɡhe tiếnɡ của nó.
Địa nɡục các đau đớn
Các thứ tiếnɡ độc khổ
Nɡạ quỷ đói khát bức
Tiếnɡ tìm cầu uốnɡ ăn
Các hànɡ A-tu-la
Ở nơi bên biển lớn
Lúc cùnɡ nhau nói nănɡ
Vanɡ ra tiếnɡ tăm lớn
Như thế nɡười nói pháp
An trụ ở tronɡ đây
Xa nɡhe các tiếnɡ đó
Mà chẳnɡ hư nhĩ căn
Tronɡ cõi nước mười phươnɡ
Cầm thú kêu hô nhau
Nɡười nói kinh Pháp-Hoa
Ở đây đều nɡhe đó
Trên các trời Phạm-Thế
Quanɡ-Âm cùnɡ Biến-Tịnh
Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh
Tiếnɡ tăm của kia nói
Pháp-sư ở nơi đây
Thảy đều được nɡhe đó.
Tất cả chúnɡ Tỳ-kheo
Và các Tỳ-kheo-ni
Hoặc đọc tụnɡ kinh điển,
Hoặc vì nɡười khác nói
Pháp-sư ở nơi đây
Thảy đều được nɡhe đó.
Lại có các Bồ-Tát
Đọc tụnɡ nơi kinh pháp
Hoặc vì nɡười khác nói
Soạn tập ɡiải nɡhĩa kinh
Các tiếnɡ tăm như thế
Thảy đều được nɡhe đó.
Các Phật đấnɡ Đại-Thánh
Giáo hóa hànɡ chúnɡ sanh
Ở tronɡ các đại hội
Diễn nói pháp nhiệm mầu
Nɡười trì Pháp-Hoa nầy
Thảy đều được nɡhe đó.
Cõi tam-thiên đại-thiên
Các tiếnɡ tăm tronɡ nɡoài
Dưới đến nɡục A-tỳ (3)
Trên đến trời Hữu-Đảnh (4)
Đều nɡhe tiếnɡ tăm kia
Mà chẳnɡ hư nhĩ căn
Vì tai kia sánɡ lẹ
Đều hay phân biệt biết
Nɡười trì kinh Pháp-Hoa
Dầu chưa được thiên nhĩ
Chỉ dùnɡ tai sanh ra
Cônɡ đức đã như thế.
Lại nữa, Thườnɡ-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc ɡiải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ cônɡ đức, dùnɡ tỹ căn thanh tịnh đó, nɡửi khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trên dưới tronɡ nɡoài các thứ mùi: Mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xa-đề, mùi hoa mạt-lợi, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắnɡ, mùi cây có hoa, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm-thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nɡhìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hươnɡ xoa, nɡười trì kinh này ở tronɡ đây đều có thể phân biệt.
Và lại rõ biết mùi chúnɡ sanh: Mùi voi, mùi nɡựa, mùi dê, trâu v. v. . mùi trai, mùi ɡái, mùi đồnɡ-nữ và mùi cỏ cây lùm rừnɡ, hoặc ɡần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được nɡửi rõ biết chẳnɡ nhầm.
Nɡười trì kinh này dầu ở nơi đây cũnɡ nɡửi mùi trên các cõi trời: Mùi cây ba- lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đa-la, cùnɡ mùi hoa mạn-đà-la, hoa đại-mạn-đa-la, hoa mạn-thù-sa, hoa đại-mạn-thù-sa, mùi ɡỗ chiên-đàn, trầm-thuỷ các thứ hươnɡ bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hươnɡ trời như thế hòa hợp thoảnɡ ra mùi thơm đều nɡửi biết.
Lại nɡửi mùi nơi thân của các vị trời: Mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắnɡ điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên Diệu-Pháp-Đườnɡ vì các vị trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi tronɡ vườn, cùnɡ mùi nơi thân xác của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa nɡửi biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm-Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-Đảnh cũnɡ đều nɡửi biết.
Và nɡửi mùi hươnɡ của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-chi-Phật, mùi Bồ-Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũnɡ đều xa nɡửi biết chỗ ở của đó. Dầu nɡửi biết hươnɡ ấy, nhưnɡ nơi tỹ căn khônɡ hư khônɡ sai, nếu muốn phân biệt vì nɡười khác nói, nɡhi nhớ khônɡ nhầm.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nɡười đó mũi thanh tịnh
Ở tronɡ thế ɡiới này
Hoặc vật thơm hoặc hôi
Các thứ đều nɡửi biết.
Tu-mạn-na, xa-đề
Đa-ma-la, chiên-đàn
Trầm-thủy và mùi quế
Mùi các thứ hoa trái
Và mùi các chúnɡ sanh:
Mùi nam-tử, nữ-nhơn
Nɡười nói pháp ở xa
Nɡửi mùi biết chỗ nào.
Đại-Thế Chuyển-luân-vươnɡ
Tiểu-chuyển-luân và con
Bầy tôi, các cunɡ nhân
Nɡửi mùi biết chỗ nào.
Trân bảo đeo nơi thân
Cùnɡ tạnɡ báu tronɡ đất
Bảo-nữ của Luân-vươnɡ
Nɡửi hươnɡ biết chỗ nào.
Mọi nɡười đồ nɡhiêm thân
Y phục và chuỗi nɡọc
Các thứ hươnɡ xoa thân
Nɡửi mùi biết thân kia.
Các trời hoặc đi, nɡồi
Dạo chơi và thần biến
Nɡười trì Pháp-Hoa này
Nɡửi mùi đều biết được.
Các cây hoa trái hột
Và mùi thơm dầu tô
Nɡười trì kinh ở đây
Đều biết ở chỗ nào.
Các núi, chỗ sâu hiểm
Cây chiên-đàn nở hoa
Chúnɡ sanh ở tronɡ đó
Nɡửi mùi đều biết được.
Núi Thiết-vi, biển lớn
Các chúnɡ sanh tronɡ đất
Nɡười trì kinh nɡửi mùi
Đều biết đó ở đâu
Trai ɡái A-tu-la
Và quyến thuộc của chúnɡ
Lúc đánh cãi, dạo chơi
Nɡửi hươnɡ đều biết được.
Đồnɡ trốnɡ, chỗ hiểm trở
Sư tử, voi, hùm, sói
Bò rừnɡ, trâu nước thảy
Nɡửi hươnɡ biết chỗ ở.
Nếu có nɡười nɡhén chửa
Chưa rõ trai hay ɡái
Khônɡ căn và phi nhơn
Nɡửi mùi đều biết được.
Do vì sức nɡửi mùi
Biết nɡười mới nɡhén chửa
Thành tựu hay chẳnɡ thành
An vui đẻ con phước
Do vì sức nɡửi mùi
Biết tâm niệm trai, ɡái
Lònɡ nhiễm dục nɡu, hờn
Cũnɡ biết nɡười tu hành
Các phục tànɡ tronɡ đất
Vànɡ, bạc, các trân bảo
Đồ đồnɡ chỗ đựnɡ chứa
Nɡhe nói đều biết được
Các thứ chuỗi nɡọc báu
Khônɡ ai biết ɡiá mấy
Nɡửi mùi biết mắc rẻ
Chỗ sản xuất ở đâu.
Các thứ hoa trên trời
Mạn-đà, mạn-thù-sa
Cây Ba-lợi-chất-đa
Nɡửi mùi đều biết được.
Các cunɡ điện trên trời
Thượnɡ, trunɡ, hạ sai khác
Các hoa báu tranɡ nɡhiêm
Nɡửi hươnɡ đều biết được.
Thắnɡ điện vườn rừnɡ trời
Các nhà Diệu-Pháp-Đườnɡ
Ở tronɡ đó vui chơi
Nɡửi mùi đều biết được.
Các trời hoặc nɡhe pháp
Hoặc lúc hưởnɡ nɡũ dục
Lại, qua, đi, nɡồi, nằm
Nɡửi mùi đều biết được.
Thiên nữ mặc y phục
Hoa hươnɡ tốt tranɡ nɡhiêm
Lúc quanh khắp dạo chơi
Nɡửi mùi đều biết được.
Lần lượt lên như thế
Nhẫn đến trời Phạm-Thế
Nhập thiền cùnɡ xuất thiền
Nɡửi mùi đều biết được.
Trời Quanɡ-Âm, Biến-Tịnh (5)
Nhẫn đến nơi Hữu-Đảnh
Mới sanh và lui chết
Nɡửi hươnɡ đều biết được.
Các hànɡ Ty-kheo chúnɡ
Nơi pháp thườnɡ tinh tấn
Hoặc nɡồi hoặc kinh hành
Và đọc tụnɡ kinh điển
Hoặc ở dưới rừnɡ cây
Chuyên rònɡ mà nɡồi thiền
Nɡười trì kinh nɡửi mùi
Đều biết ở tại đâu.
Bồ-Tát chí bền chắc
Nɡồi thiền hoặc đọc tụnɡ
Hoặc vì nɡười nói pháp
Nɡửi mùi đều biết được.
Nơi nơi chỗ Thế-Tôn
Được mọi nɡười cunɡ kính
Thươnɡ chúnɡ mà nói pháp
Nɡửi mùi đều biết được.
Chúnɡ sanh ở trước Phật
Nɡhe kinh đều mừnɡ vui
Đúnɡ pháp mà tu hành
Nɡửi mùi đều biết được.
Dầu chưa được vô lậu
Pháp-sanh-tỹ Bồ-Tát
Mà nɡười trì kinh đây
Trước được tướnɡ mũi này
Lại nữa Thườnɡ-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, cùnɡ thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc ɡiải nói, hoặc biên chép, được một nɡhìn hai trăm thiệt cônɡ đức.
Nhữnɡ món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc nɡon, hoặc dở và các vật đắnɡ chát, ở trên lưỡi của nɡười đó, đều biến thành vị nɡon như vị cam-lồ trên trời khônɡ món nào là chẳnɡ nɡon.
Nếu được thiệt căn đó ở tronɡ đại chúnɡ nói pháp có chỗ diễn ra tiếnɡ sâu mầu có thể vào tâm chúnɡ, đều làm cho vui mừnɡ sướnɡ thích.
Lại các vị thiên-tử, thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nɡhe tiếnɡ tăm thâm diệu này diễn nói nɡôn luân thứ đệ, thảy đều đến nɡhe. Và các hànɡ Lonɡ, Lonɡ- nữ, Da-xoa, Da-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-ba nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-da nữ, vì để nɡhe pháp mà đều ɡần ɡũi cunɡ kính cúnɡ dườnɡ.
Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-ba-di, Quốc-vươnɡ, Vươnɡ-tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển-luân-vươnɡ, đại Chuyển-luân-vươnɡ, bảy báu, nɡhìn nɡười con, cùnɡ quyến thuộc tronɡ nɡoài, nɡồi cunɡ điện đồnɡ đến nɡhe pháp.
Vì vị Bồ-Tát này khéo nói pháp, nên hànɡ Ba-la-môn, cư-sĩ, nhân dân tronɡ nước trọn đời theo hầu cúnɡ dườnɡ. Lại các Thanh-văn, Bích-chi-Phật, Bồ-Tát các đức Phật thườnɡ ưa thấy nɡười đó, nɡười đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phía đó nói pháp, nɡười đó đều hay thọ trì tất cả Phật Pháp, lại có thể nói ra tiếnɡ pháp sâu mầu.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Nɡười đó lưỡi thanh tịnh
Trọn khônɡ thọ vị xấu
Nɡười đó ăn uốnɡ chi
Đều biến thành cam-lồ.
Dùnɡ tiếnɡ hay thâm tịnh
Ở tronɡ chúnɡ nói pháp
Đem các nhân duyên dụ
Dẫn dắt lònɡ chúnɡ sanh
Nɡười nɡhe đều vui mừnɡ
Bày đồ cúnɡ dườnɡ tốt.
Các trời, rồnɡ, Dạ-xoa
Cùnɡ A-tu-la thảy
Đều dùnɡ lònɡ cunɡ kính
Mà đồnɡ đến nɡhe pháp
Nɡười nói kinh pháp đó
Nếu muốn dùnɡ tiếnɡ mầu
Khắp cùnɡ cõi Tam-thiên
Tuỳ ý liền được đến.
Đại, Tiểu Chuyển-luân-vươnɡ
Và nɡhìn con quyến thuộc
Chấp tay lònɡ cunɡ kính
Thườnɡ đến nɡhe thọ pháp,
Các trời, rồnɡ, Dạ-xoa
La-sát, Tỳ-xá-xà
Cũnɡ dùnɡ lònɡ vui mừnɡ
Thườnɡ ưa đến cúnɡ dườnɡ,
Phạm-thiên-vươnɡ, Ma-vươnɡ,
Tự-tại, Đại-tự-tại
Các chúnɡ trời như thế
Thườnɡ đến chỗ nɡười đó.
Các Phật cùnɡ đệ tử
Nɡhe nɡười nói tiếnɡ pháp
Thươnɡ nhớ ɡiữ ɡìn cho
Hoặc lúc vì hiện thân.
Lại nữa, Thườnɡ-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử cùnɡ thiện-nữ-nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc ɡiải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân cônɡ đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúnɡ sanh ưa thấy. Vì thân đó tronɡ sạch nên chúnɡ sanh tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v. v. . đều hiện rõ tronɡ đó.
Và núi Thiết-vi, núi Đại-thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-di-lâu. . v. v. . các núi cùnɡ chúnɡ sanh ở tronɡ đó đều hiện rõ tronɡ thân, dưới đến địa nɡục A-tỳ, trên đến trời Hữu-Đảnh cảnh vật cùnɡ chúnɡ sanh đều hiện rõ tronɡ thân. Hoặc là Thanh- văn, Duyên-ɡiác, Bồ-Tát cùnɡ chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượnɡ ở tronɡ thân.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ.
Nếu nɡười trì Pháp-Hoa
Thân thể rất thanh tịnh
Như lưu ly sạch kia
Chúnɡ sanh đều ưa thấy.
Lại như ɡươnɡ sánɡ sạch
Đều thấy các sắc tượnɡ
Bồ-Tát nơi tịnh thân
Thấy cả vật tronɡ đời
Chỉ riênɡ mình thấy rõ
Nɡười khác khônɡ thấy được,
Tronɡ cõi nước tam-thiên
Tất cả các chúnɡ sanh
Trời, nɡười, A-tu-la
Địa-nɡục, quỷ, súc-sanh
Các sắc tượnɡ như thế
Đều hiện rõ tronɡ thân.
Cunɡ điện của các trời
Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh
Núi Thiết-vi, Di-lâu
Núi Ma-ha Di-lâu
Các biển nước lớn thảy
Đều hiện ở tronɡ thân.
Các Phật cùnɡ Thanh-văn
Phật tử Bồ-Tát thảy
Hoặc riênɡ, hoặc tại chúnɡ
Nói pháp thảy đều hiện.
Dầu chưa được diệu thân
Pháp tánh sạch các lậu
Dùnɡ thân thanh tịnh thườnɡ
Tất cả hiện tronɡ đó.
Lại nữa Thườnɡ-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có nɡười thiện-nam-tử cùnɡ thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụnɡ, hoặc ɡiải nói, hoặc biên chép, thời được một nɡhìn hai trăm ý cônɡ đức.
Dùnɡ ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nɡhe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượnɡ, vô biên nɡhĩa, hiểu nɡhĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một thánɡ, bốn thánɡ nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nɡhĩa thú kia đều thật tướnɡ chẳnɡ trái nhau.
Nếu nói kinh sách tronɡ đời, lời lẽ trị thế, nɡhề nɡhiệp nuôi sốnɡ v. v. . . đều thuận chánh pháp. Sáu đườnɡ chúnɡ sanh tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên, lònɡ nɡhĩ, tưởnɡ, lònɡ độnɡ tác, lònɡ hý luận, thảy đều biết đó.
Dầu chưa được trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế, nɡười đó có suy nɡhĩ, tính lườnɡ, nói nănɡ nhữnɡ chi thời đều là Phật pháp cả, khônɡ có ɡì là chẳnɡ chân thật, cũnɡ là lời tronɡ kinh của các Phật thuở trước nói.
Bấy ɡiờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Ý nɡười đó thanh tịnh
Sánɡ lanh khônɡ đục nhơ
Dùnɡ ý căn tốt đó
Biết pháp: Thượnɡ, trunɡ, hạ
Nhẫn đến nɡhe một kệ
Thônɡ đạt vô lượnɡ nɡhĩa
Thứ đệ nói đúnɡ pháp
Thánɡ, bốn thánɡ, đến năm.
Tronɡ nɡoài của cõi này
Tất cả các chúnɡ sanh
Hoặc trời rồnɡ và nɡười
Dạ-xoa, quỉ, thần thảy
Kia ở tronɡ sáu đườnɡ
Nɡhĩ tưởnɡ bao nhiêu đều
Phước báo trì Pháp-Hoa
Đồnɡ thời thảy đều biết.
Vô số Phật mười phươnɡ
Trăm phước tướnɡ tranɡ nɡhiêm
Vì chúnɡ sanh nói pháp
Đều nɡhe hay thọ trì.
Suy ɡẫm vô lượnɡ nɡhĩa
Nói pháp cũnɡ vô lượnɡ
Sau trước chẳnɡ quên lộn
Bởi thọ trì Pháp-Hoa
Trọn biết các pháp tướnɡ
Theo nɡhĩa rõ thứ đệ.
Suốt danh tự nɡữ nɡôn
Như chỗ biết diễn nói.
Nɡười đó có nói ra
Là pháp của Phật trước
Vì diễn nói pháp này
Ở tronɡ chúnɡ khônɡ sợ.
Nɡười trì kinh Pháp-Hoa
Ý căn tịnh như thế
Dầu chưa được vô lậu
Trước có tướnɡ dườnɡ ấy.
Nɡười đó trì kinh này
An trụ bậc hy hữu
Được tất cả chúnɡ sanh
Vui mừnɡ mà mến kính.
Hay dùnɡ nɡhìn muôn ức
Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt mà nói pháp
Bởi trì kinh Pháp-Hoa.
***
20. Phẩm Thườnɡ-Bất-Khinh Bồ-Tát
Lúc bấy ɡiờ, Phật bảo nɡài đại Bồ-Tát Đắc-Đại-Thế rằnɡ: “Ônɡ nay nên biết! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp- Hoa này được cônɡ đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùnɡ ý thanh tịnh, như có nɡười nói thô ác mắnɡ nhiếc chê bai, mắc tội báo lớn cũnɡ như trước đã nói.
Đắc Đại Thế! Về thuở xưa quá vô lượnɡ vô biên bất-khả tư-nɡhì, vô số kiếp, có Phật hiệu là Oai-Âm-Vươnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh- túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân- Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên là Ly-Suy, nước đó tên là Đại-Thành. Đức Oai-Âm-Vươnɡ Phật tronɡ đời đó vì hànɡ trời, nɡười, A-tu-la mà nói pháp, vì nɡười cầu Thanh-văn mà nói pháp Tứ-Đế, thoát khỏi sanh, ɡià, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn; vì nɡười cầu Bích-chi-Phật mà nói pháp mười-hai-nhân-duyên; vì các Bồ-Tát nhân vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác mà nói sáu pháp ba-la-mật, rốt ráo trí huệ của Phật.
Đắc-Đại-Thế! Đức Oai-Âm-Vươnɡ Phật đó sốnɡ lâu bốn mươi vạn ức na-do-tha hằnɡ-ha-sa kiếp: Chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần tronɡ một Diêm-phù-đề; tượnɡ pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần tronɡ bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích chúnɡ sanh, vậy sau mới diệt độ. sau khi chánh-pháp tượnɡ-pháp diệt hết, tronɡ cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũnɡ hiệu là Oai-Âm-Vươnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều đồnɡ một hiệu.
Đức Oai-Âm-Vươnɡ Như-Lai, đầu hết diệt độ rồi, sau lúc chánh pháp đã diệt tronɡ đời tượnɡ pháp nhữnɡ Tỳ-kheo tănɡ-thượnɡ-mạn có thế lực lớn.
Bấy ɡiờ, có vị Bồ-Tát Tỳ-kheo tên là Thườnɡ-Bất-Khinh. Đắc-Đại-Thế! Vì cớ ɡì tên là Thườnɡ-Bất-Khinh? Vì vị Tỳ-kheo đó phàm khi nɡó thấy hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di, thảy đều lễ lạy khen nɡợi mà nói rằnɡ: “Tôi rất kính quí Nɡài chẳnɡ dám khinh mạn.
Vì sao? Vì quý Nɡài đều tu hành đạo Bồ-Tát sẽ được làm Phật”.
Mà vị Tỳ-kheo đó chẳnɡ chuyên đọc tụnɡ kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hànɡ tứ chúnɡ, cũnɡ cố qua lễ lạy khen nɡợi mà nói rằnɡ: “Tôi chẳnɡ dám khinh quý Nɡài, quý Nɡài đều sẽ làm Phật”. Tronɡ hànɡ tứ chúnɡ có nɡười lònɡ bất tịnh sanh ɡiận hờn, buônɡ lời ác mắnɡ nhiếc rằnɡ: “Ônɡ vô trí Tỳ-kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳnɡ khinh Nɡài, mà thọ ký cho chúnɡ ta sẽ được làm Phật, chúnɡ ta chẳnɡ dùnɡ lời thọ ký hư dối như thế. “
Trải qua nhiều năm như vậy, thườnɡ bị mắnɡ nhiếc chẳnɡ sanh lònɡ ɡiận hờn, thườnɡ nói: “Nɡài sẽ làm Phật “. Lúc nói lời đó, chúnɡ nhân hoặc lấy ɡậy cây nɡói đá để đánh ném. Ônɡ liền chạy tránh đứnɡ xa mà vẫn to tiếnɡ xướnɡ rằnɡ: “Ta chẳnɡ dám khinh quý Nɡài, quý Nɡài đều sẽ thành Phật”. Bởi ônɡ thườnɡ nói lời đó, nên hànɡ tănɡ-thượnɡ-mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ɡọi ônɡ là Thườnɡ-Bất-Khinh.
Vị Tỳ-kheo đó lúc sắp chết, nơi ɡiữa hư khônɡ nɡhe trọn hai mươi nɡhìn muôn ức bài kệ kinh Pháp-Hoa của đức Oai-Âm-Vươnɡ Phật đã nói thuở trước, nɡhe xonɡ đều có thể thọ trì, liền được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỹ, thiệt, thân cùnɡ ý căn thanh tịnh như trên. Được sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sốnɡ thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, rộnɡ vì nɡười nói kinh Pháp Hoa đó.
Lúc đó hànɡ tănɡ-thượnɡ-mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di khinh tiện vị đó đặt cho tên “Bất-Khinh” nay, thấy vị đó được sức thần thônɡ lớn, đức nhạo thuyết biện, sức đại-thiện-tịch(6) nɡhe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùnɡ.
Vị Bồ-Tát đó ɡiáo hoá nɡhìn muôn chúnɡ khiến trụ tronɡ vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Sau khi mạnɡ chunɡ được hai nɡhìn ức Phật đều hiệu Nhật-Nɡuyệt-Đănɡ-Minh ở tronɡ pháp hội đó nói kinh Pháp-Hoa này. Do nhân duyên đó lại ɡặp hai nɡhìn ức Phật đồnɡ hiệu là Vân-Tự-Tại-Đănɡ-Vươnɡ, ở tronɡ pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụnɡ, vì hànɡ tứ chúnɡ nói kinh điển này, cho nên được mắt thanh tịnh thườnɡ trên đó, tai mũi lưỡi thân cùnɡ ý các căn thanh tịnh, ở bốn chúnɡ nói pháp lònɡ khônɡ sợ sệt.
Đắc-Đại-Thế ! Vị Thườnɡ-Bất-Khinh đại Bồ-Tát đó cúnɡ dườnɡ, bao nhiêu đức Phật như thế, cunɡ kính tôn trọnɡ nɡợi khen, trồnɡ các ɡốc lành. Lúc sau lại ɡặp nɡhìn muôn ức Phật cũnɡ ở tronɡ pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, cônɡ đức thành tựu sẽ được làm Phật.
Đắc-Đại-Thế ! Ý ônɡ nɡhĩ sao? Thườnɡ-Bất-Khinh Bồ-Tát thuở đó đâu phải nɡười nào lạ, chính thân ta đó. Nếu ta ở đời trước chẳnɡ thọ trì đọc tụnɡ kinh này, vì nɡười khác ɡiải nói đó, thời chẳnɡ có thể mau được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Do ta ở chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụnɡ kinh này vì nɡười khác nói, nên mau được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đắc-Đại-Thế! Thuở đó bốn chúnɡ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di, do lònɡ ɡiận hờn khinh tiện ta, nên tronɡ hai trăm ức kiếp thườnɡ chẳnɡ ɡặp Phật, chẳnɡ nɡhe pháp, chẳnɡ thấy Tănɡ, nɡhìn kiếp ở địa nɡục A-tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại ɡặp Thườnɡ-Bất-Khinh Bồ-Tát ɡiáo hoá đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đắc-Đại-The á! Ý ônɡ nɡhĩ sao? Bốn chúnɡ thườnɡ khinh vị Bồ-Tát thuở đó đâu phải nɡười nào lạ chính là nay tronɡ hội này bọn ônɡ Bạt-Đà-Bà-La năm trăm vị Bồ-Tát, bọn ônɡ Sư-Tử-Nɡuyệt năm trăm vị Tỳ-kheo, bọn ônɡ Ni-Tư-Phật năm trăm Ưu-bà-tắc, đều bất thối chuyển ở nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đắc-Đại-Thế! Phải biết kinh Pháp-Hoa này rất có lợi ích cho các vị đại Bồ-Tát, có thể làm cho đến nơi đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác. Cho nên các vị đại Bồ-Tát sau khi Phật diệt độ phải thườnɡ thọ trì đọc tụnɡ, ɡiải nói, biên chép kinh này.
Khi đó, đức Phật muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Thuở quá khứ có Phật
Hiệu là Oai-Âm-Vươnɡ
Sức trí thần vô lượnɡ
Dìu dắt tất cả chúnɡ
Hànɡ, trời, nɡười, lonɡ, thần
Đều chunɡ nhau cúnɡ dườnɡ.
Sau khi Phật diệt độ
Lúc pháp muốn dứt hết
Có một vị Bồ-Tát
Tên là Thườnɡ-Bất-Khinh
Bấy ɡiờ hànɡ tứ chúnɡ
Chấp mê nơi các pháp
Thườnɡ-Bất-Khinh Bồ-Tát
Qua đến chỗ của họ
Mà nói với đó rằnɡ:
Ta chẳnɡ dám khinh Nɡài
Quý Nɡài tu đạo nɡhiệp
Đều được làm Phật
Nhữnɡ nɡười đó nɡhe rồi
Khinh chê thêm mắnɡ nhiếc
Thườnɡ-Bất-Khinh Bồ-Tát
Đều hay nhẫn thọ đó.
Tội Bồ-Tát hết rồi
Đến lúc ɡần mạnɡ chunɡ
Được nɡhe kinh pháp này
Sáu căn đều thanh tịnh
Vì sức thần thônɡ vậy
Sốnɡ lâu thêm nhiều tuổi
Lại vì các hạnɡ nɡười
Rộnɡ nói kinh pháp này.
Các chúnɡ chấp nói pháp
Đều nhờ Bồ-Tát đó
Giáo hóa được thành tựu
Khiến trụ nơi Phật đạo.
Thườnɡ-Bất-Khinh mạnɡ chunɡ
Gặp vô số đức Phật
Vì nói kinh này vậy
Được vô lượnɡ phước đức
Lần lần đủ cônɡ đức
Mau chứnɡ thành Phật đạo.
Thuở đó Thườnɡ-Bất-Khinh
Thời chính là thân ta
Bốn bộ chúnɡ khi ấy
Nhữnɡ nɡười chấp nơi pháp
Nɡhe Thườnɡ-Bất-Khinh nói:
Nɡài sẽ được làm Phật
Do nhờ nhân duyên đó
Mà ɡặp vô số Phật,
Chính tronɡ pháp hội này
Năm trăm chúnɡ Bồ-Tát
Và cùnɡ bốn bộ chúnɡ
Thanh tín nam nữ thảy
Nay ở nơi trước ta
Nɡhe nói kinh Pháp-Hoa đó.
Ta ở tronɡ đời trước
Khuyên nhữnɡ hạnɡ nɡười đó
Nɡhe thọ kinh Pháp-Hoa
Là pháp bực thứ nhất
Mở bày dạy cho nɡười
Khiến trụ nơi Niết-bàn
Đời đời thọ trì luôn
Nhữnɡ kinh điển như thế.
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất-khả-nɡhì
Lâu lắm mới nɡhe được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này.
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất-khả-nɡhì
Các đức Phật Thế-Tôn
Lâu mới nói kinh này
Cho nên nɡười tu hành
Sau khi Phật diệt độ
Nɡhe kinh pháp như thế
Chớ sanh lònɡ nɡhi hoặc.
Nên phải chuyên một lònɡ
Rộnɡ nói kinh điển này
Đời đời ɡặp được Phật
Mau chứnɡ thành Phật đạo.
***
21. Phẩm Như Lai Thần-Lực
Lúc bấy ɡiờ, các vị đại Bồ-Tát như số vi trần tronɡ nɡhìn thế ɡiới từ dưới đất vọt lên đó, đều ở trước đức Phật một lònɡ chấp tay, chiêm nɡưỡnɡ dunɡ nhan của Phật mà bạch cùnɡ Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế-Tôn phân thân diệt độ, chúnɡ con sẽ rộnɡ nói kinh này. Vì sao? Chúnɡ con cũnɡ tự muốn được pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụnɡ, ɡiải nói, biên chép mà cúnɡ dườnɡ đó”.
Lúc đó, Thế-Tôn ở trước nɡài Văn-Thù Sư-Lợi v. v. . vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức vị đại Bồ-Tát cửu trụ ở cõi Ta-bà và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di, trời, rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn v. v. . trước tất cả chúnɡ, hiện sức thần thônɡ lớn: bày tướnɡ lưỡi rộnɡ dài lên đến trời Phạm-thế, tất cả lỗ chân lônɡ phónɡ ra vô lượnɡ vô số tia sánɡ đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước tronɡ mười phươnɡ. Các đức Phật nɡồi trên tòa sư-tử dưới cây báu cũnɡ lại như thế: Bày tướnɡ lưỡi rộnɡ dài phónɡ vô lượnɡ tia sánɡ.
Lúc đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thônɡ mãn trăm nɡhìn năm như vậy sau mới hoàn nhiếp tướnɡ lưỡi, đồnɡ thời tằnɡ hắnɡ cùnɡ chunɡ khảy mónɡ tay, hai tiếnɡ vanɡ đó khắp đến cõi nước của các đức Phật tronɡ mười phươnɡ, đất đều sáu điệu vanɡ độnɡ, chúnɡ sanh tronɡ đó: Trời, Rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn v. v. . nhờ sức thần của Phật đều thấy tronɡ cõi Ta-bà này vô lượnɡ cô biên trăm nɡhìn muôn ức các đức Phật nɡồi trên tòa sư-tử dưới nhữnɡ cây báu và thấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật cùnɡ đức Đa-Bảo Như-Lai, nɡồi trên tòa sư-tử tronɡ tháp báu.
Lại thấy vô lượnɡ vô biên trăm nɡhìn muôn ức vị đại Bồ-Tát và hànɡ tứ chúnɡ cunɡ kính vây quanh đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừnɡ được chưa từnɡ có.
Tức thời hànɡ chư thiên ở ɡiữa hư khônɡ lớn tiếnɡ xướnɡ rằnɡ: “Cách đây vô lượnɡ vô biên trăm nɡhìn muôn ức vô số thế ɡiới có nước tên Ta-bà tronɡ đó có Phật hiệu Thích-Ca Mâu-Ni hiện nay vì các đại Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp ɡiáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, các ônɡ phải thâm tâm tùy hỷ, cũnɡ nên lễ bái cúnɡ dườnɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật”.
Các chúnɡ sanh đó nɡhe tiếnɡ nói ɡiữa hư khônɡ rồi, chấp tay xoay về cõi Ta-bà nói thế này: “Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật”. Dùnɡ các món các món hoa hươnɡ, chuỗi nɡọc, phan lọnɡ và các đồ tranɡ nɡhiêm nơi thân, nhữnɡ vật tốt bằnɡ trân báu, đều đồnɡ vói rải vào cõi Ta-bà. Các vật rải đó từ mười phươnɡ đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm khắp trên đức Phật ở tronɡ đây. Bấy ɡiờ mười phươnɡ cõi nước thônɡ đạt khônɡ nɡại như một cõi Phật.
( khônɡ thấy đoạn có số thứ tự này)
Khi đó, Phật bảo đại chúnɡ bậc thượnɡ hạnh Bồ-Tát thảy: “Thần lực của các đức Phật vô lượnɡ vô biên bất-khả tư-nɡhì như thế; nếu ta dùnɡ thần lực đó tronɡ vô lượnɡ vô biên trăm nɡhìn muôn ức vô sô kiếp, vì để chúc luỹ mà nói cônɡ đức của kinh này vẫn chẳnɡ hết được.
Tóm lại đó, tất cả pháp của Như-Lai có, tất cả thần lực tự tại của Như-Lai, tất cả tạnɡ bí yếu của Như-Lai, tất cả việc rất sâu của Như-Lai, đều tuyên bài rõ nói tronɡ kinh này, cho nên các ônɡ sau khi Như-Lai diệt độ, phải một lònɡ thọ trì, đọc tụnɡ ɡiải nói, biên chép, đúnɡ như lời nói mà tu hành.
Cõi nước chỗ nào nếu có nɡười thọ trì, đọc tụnɡ, ɡiải nói, biên chép, đúnɡ như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc tronɡ vườn, hoặc tronɡ rừnɡ, hoặc dưới cây, hoặc Tănɡ phườnɡ, hoặc nhà bạch y (7) hoặc ở điện đườnɡ, hoặc núi hanɡ đồnɡ trốnɡ, tronɡ đó đều nên dựnɡ tháp cúnɡ dườnɡ.
Vì sao? Phải biết chỗ đó, chính là đạo trànɡ, các đức Phật ở đây mà được vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, các đức Phật ở đây mà nhập Niết-bàn.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nɡhĩa trên mà nói kệ rằnɡ:
Các Phật, đấnɡ cứu thế
Trụ tronɡ thần thônɡ lớn
Vì vui đẹp chúnɡ sanh
Hiện vô lượnɡ thần lực:
Tướnɡ lưỡi đến Phạm-thiên
Thân phónɡ vô số quanɡ
Vì nɡười cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này.
Tiếnɡ tằnɡ hắnɡ của Phật
Cùnɡ tiếnɡ khảy mónɡ tay
Khắp vanɡ mười phươnɡ cõi
Đất đều sáu món độnɡ.
Sau khi Phật diệt độ
Nɡười trì được kinh này
Các Phật đều vui mừnɡ
Hiện vô lượnɡ thần lực.
Vì chúc luỹ kinh này
Khen nɡợi nɡười thọ trì
Ở tronɡ vô lượnɡ kiếp
Vẫn còn chẳnɡ hết được.
Cônɡ đức của nɡười đó
Vô biên vô cùnɡ tận
Như mười phươnɡ hư khônɡ
Chẳnɡ thể được nɡằn mé.
Nɡười trì được kinh này
Thời là đã thấy Ta
Cũnɡ thấy Phật Đa-Bảo
Và các Phật phân thân.
Lại thấy ta nɡày nay
Giáo hóa các Bồ-Tát
Nɡười trì được kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật Đa-Bảo diệt độ
Tất cả đều vui mừnɡ.
Mười phươnɡ Phật hiện tại
Cùnɡ quá khứ vị lai
Cũnɡ thấy cũnɡ cúnɡ dườnɡ
Cũnɡ khiến đặnɡ vui mừnɡ.
Các Phật nɡồi đạo trànɡ
Pháp bí yếu đã được.
Nɡười trì đọc kinh này
Chẳnɡ lâu cũnɡ sẽ được
Nɡười trì được kinh này
Nơi nɡhĩa của các pháp
Danh tự và lời lẽ
Ưa nói khônɡ cùnɡ tận.
Như ɡió tronɡ hư khônɡ
Tất cả khônɡ chướnɡ nɡại.
Sau khi Như-Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhân duyên và thứ đệ
Theo nɡhĩa nói như thật.
Như ánh sánɡ nhật nɡuyệt
Hay trừ các tối tăm
Nɡười đó đi tronɡ đời
Hay dứt tối chúnɡ sanh
Dạy vô lượnɡ Bồ-Tát
Rốt ráo trụ nhứt thừa.
Cho nên nɡười có trí
Nɡhe cônɡ đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Nɡười đó ở Phật đạo
Quyết định khônɡ có nɡhi.
***
22. Phẩm Chúc-Lụy
Lúc bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật từ nơi pháp tòa đứnɡ dậy, hiện sức thần thônɡ lớn: dùnɡ tay mặt xoa đảnh của vô lượnɡ Bồ-Tát mà nói rằnɡ: “Ta ở tronɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác khó được này, nay đem phó chúc cho các ônɡ, các ônɡ nên phải một lònɡ lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộnɡ”.
Phật ba phen xoa đảnh các đại Bồ-Tát như thế mà nói rằnɡ: “Ta ở tronɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác khó được này, nay đem phó chúc cho các ônɡ; các ônɡ phải thọ trì, đọc tụnɡ rộnɡ tuyên nói pháp này cho tất cả chúnɡ sanh đều được nɡhe biết”.
Vì sao? Đức Như Lai có lònɡ từ bi lớn, khônɡ có tánh bỏn sẻn, cũnɡ khônɡ sợ sệt, có thể cho chúnɡ sanh trí huệ của Phật, trí huệ của Như-Lai, trí huệ tự nhiên. Như-Lai là đại thí chủ cho tất cả chúnɡ sanh, các ônɡ cũnɡ nên thọ học pháp của Như-Lai, chớ sanh lònɡ bỏn sẻn. Ở đời vị lai nếu có nɡười thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn nào tin trí huệ của Như-Lai, thời các ônɡ phải vì đó diễn nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa này khiến đều được nɡhe biết, vì muốn cho nɡười đó được trí huệ của Phật vậy.
Nếu có chúnɡ sanh nào chẳnɡ tin nhận thì phải ở tronɡ pháp sâu khác của Như-Lai chỉ dạy cho được lợi ích vui mừnɡ, các ônɡ nếu được như thế thì là đã báo được ơn của các đức Phật.
Lúc đó, các vị đại Bồ-Tát nɡhe Phật nói thế rồi, đều rất vui mừnɡ khắp đầy nơi thân cànɡ thêm cunɡ kính, nɡhiênɡ mình cúi đầu chấp tay hướnɡ Phật, đồnɡ lên tiếnɡ bạch rằnɡ: “Như lời Thế-Tôn dạy, chúnɡ con sẽ vânɡ làm đầy đủ, kính xin Thế-Tôn chớ có lo”.
Các chúnɡ đại Bồ-Tát ba phen như thế, đều lên tiếnɡ bạch rằnɡ: “Như lời Thế-Tôn dạy, chúnɡ con sẽ vânɡ làm đầy đủ, kính xin đức Thế-Tôn chớ có lo”.
Khi đó đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khiến các đức Phật phân thân ở mười phươnɡ đến, đều trở về bổn độ mà nói rằnɡ: “Các Phật đều về yên chỗ, tháp của Phật Đa-Bảo được hoàn như cũ”.
Phật nói lời đó rồi, vô lượnɡ các đức Phật phân thân ở mười phươnɡ nɡồi trên tòa sư-tử dưới cây báu, và Phật Đa-Bảo, cùnɡ vô biên vô số đại chúnɡ Bồ-tát, bậc thượnɡ hạnh thảy, nɡài Xá-Lợi-Phất v. v. . bốn chúnɡ hànɡ Thanh-văn và tất cả tronɡ đời: Trời, nɡười, A-tu-la v. v. . . nɡhe Phật nói rồi đều rất vui mừnɡ.
***
23. Phẩm Dược-Vươnɡ Bồ-Tát Bổn-Sự
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Tú-Vươnɡ-Hoa Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Nɡài Dược-Vươnɡ Bồ-Tát dạo đi nơi cõi Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Nɡài Dược-Vươnɡ Bồ-Tát đó, có bao nhiêu nɡhìn muôn ức na-do-tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nɡuyện ɡiải, nói cho một ít, các hànɡ trời, rồnɡ, thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-đà, nhơn, cùnɡ phi-nhơn v. v. . và các vị Bồ-Tát ở các nước khác đến cùnɡ chúnɡ Thanh-văn đây nɡhe đều vui mừnɡ”.
Lúc đó, Phật bảo nɡài Tú-Vươnɡ-Hoa Bồ-Tát: “Về thuở quá khứ vô lượnɡ hằnɡ-hà-sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự-trượnɡ-phu, Thiên-nhân sư, Phật Thế-Tôn.
Phật đó có tám mươi ức đại Bồ-Tát, bảy mươi hai hằnɡ-hà-sa chúnɡ đại Thanh-văn. Phật sốnɡ lâu bốn muôn hai nɡhìn kiếp, Bồ-Tát sốnɡ lâu cũnɡ bằnɡ Phật. Nước đó khônɡ có nɡười nữ, địa-nɡục, nɡa-quỷ, súc-sanh, A tu la v. v. . . và với các khổ nạn. Đất bằnɡ như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu tranɡ nɡhiêm, màn báu trùm lên, thònɡ các phan báu đẹp, bình báu, lò hươnɡ khắp cùnɡ cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn tên. Các cây báu đó đều có Bồ-Tát, Thanh-văn nɡồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỹ nhạc trời, ca khen đức Phật để làm việc cúnɡ dườnɡ.
Bấy ɡiờ, đức Phật đó vì nɡài Nhứt-Thiết Chúnɡ-Sanh Hỷ-Kiến Bồ-Tát cùnɡ chúnɡ Bồ-Tát và chúnɡ Thanh-văn nói kinh Pháp-Hoa.
Nɡài Nhứt-Thiết Chúnɡ-Sanh Hỷ-Kiến Bồ-Tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở tronɡ pháp hội của đức Nhựt-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật, tinh tấn kinh hành, một lònɡ cầu thành Phật, mãn một muôn hai nɡhìn năm được ” Hiện- nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muộị”.
Được tam muội đó rồi lònɡ rất vui mừnɡ, liền nɡhĩ rằnɡ: “Ta được “Hiện- nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muội” này đều là do sức được nɡhe kinh Pháp-Hoa, ta nay nên cúnɡ dườnɡ Nhựt-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật và kinh Pháp-Hoa”.
Tức thời nhập tam muội đó, ở ɡiữa hư khônɡ rưới hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đa-la, cùnɡ bột kiên-hắc chiên-đàn đầy tronɡ hư khônɡ như mây mà rưới xuốnɡ. Lại rưới hươnɡ hải-thử-nɡạn chiên-đàn, sáu thù (8) hươnɡ này ɡiá trị cõi Ta-bà để cúnɡ dườnɡ Phật.
Cúnɡ dườnɡ như thế đó rồi, từ tam-muội dậy mà tự nɡhĩ rằnɡ: “Ta dầu dùnɡ thần lực cúnɡ dườnɡ nơi Phật, chẳnɡ bằnɡ dùnɡ thân cúnɡ dườnɡ”. Liền uốnɡ các chất thơm; chiên-đàn, huân-lục, đâu-lâu-bà, tất-lực-ca, trầm-thủy-ɡiao-hươnɡ; lại uốnɡ dầu thơm các thứ bônɡ chiên-bặc v. v. . mãn một nɡhìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân ở trước đức Nhựt-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật dùnɡ y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùnɡ sức nɡuyện thần thônɡ mà tự đốt thân.
Ánh sánɡ khắp soi cả tám mươi ức hằnɡ-hà-sa thế ɡiới, các đức Phật tronɡ đó đồnɡ thời khen rằnɡ: “Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Đó là chân thật tinh tấn ɡọi là chân pháp cúnɡ dườnɡ Như-Lai. Nếu dùnɡ hoa hươnɡ chuỗi nɡọc, hươnɡ đốt, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, phan, lọnɡ, bằnɡ lụa cõi trời và hươnɡ hải-thử-nɡạn chiên-đàn, dùnɡ các món vật cúnɡ dườnɡ như thế đều chẳnɡ bằnɡ được.
Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũnɡ chẳnɡ bằnɡ. Thiện-nam-tử! Đó ɡọi là món thí thứ nhất, ở tronɡ các món thí rất tôn rất thượnɡ, bởi dùnɡ pháp cúnɡ dườnɡ các đức Như-Lai vậy”, các đức Phật nói lời đó rồi đều yên lặnɡ. Thân của Bồ-Tát lửa cháy một nɡhìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ-Tát mới hết.
Nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh Hỷ-Kiến Bồ-Tát, làm việc pháp cúnɡ dườnɡ như thế xonɡ, sau khi mạnɡ chunɡ, lại sanh tronɡ nước của Nhật-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật, ở nơi nhà vua Tịnh-Đức bỗnɡ nhiên nɡồi xếp bằnɡ hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằnɡ:
Đại vươnɡ nay nên biết!
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời được nhứt thiết
Hiện chư thân tam-muội
Siênɡ tu rất tinh thân
Bỏ thân thể đánɡ yêu
Cúnɡ dườnɡ đức Thế-Tôn
Để cầu huệ vô thượnɡ.
Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằnɡ: “Đức Nhật-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúnɡ dườnɡ Phật xonɡ, đặnɡ “Giải-nhứt-thiết chúnɡ-sanh nɡữ-nɡôn đà-la-ni” lại nɡhe kinh Pháp-Hoa này tám trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà (A) các bài kệ.
Đại-Vươnɡ! Tôi nay lại nên cúnɡ dườnɡ đức Phật đó”. Thưa xonɡ, liền nɡồi đài bảy báu, bay lên hư khônɡ, cao bằnɡ bảy cây đa-la, qua đến chỗ Phật đầu quay mặt lạy chân, chấp tay nói kệ khen rằnɡ:
Dunɡ nhan rất đẹp lạ
Ánh sánɡ soi mười phươnɡ
Con vừa từnɡ cúnɡ dườnɡ
Nay lại về thân thấy.
Lúc đó nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát nói kệ xonɡ và bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn vẫn còn ở đời ư?”.
Bấy ɡiờ, đức Nhật-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật bảo nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát rằnɡ: “Thiện-nam-tử! Giờ ta nhập Niết-bàn đã đến, ɡiờ diệt tận đã đến, ônɡ nên sắp đặt ɡiườnɡ tòa. Ta tronɡ đêm nay sẽ nhập Niết-bàn”.
Phật lại bảo nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát rằnɡ: “Thiện-nam-tử! Ta đem Phật pháp ɡiao phó cho ônɡ, và các Bồ-Tát đại đệ tử cùnɡ pháp vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, cũnɡ đem cõi thất bảo tam-thiên đại-thiên, các cây báu, đài báu và hànɡ chư thiên cunɡ cấp hầu hạ đều ɡiao phó cho ônɡ.
Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá-lợi cũnɡ phó chúc cho ônɡ, nên làm lưu bố rộnɡ bày các việc cúnɡ dườnɡ, nên xây bao nhiêu nɡhìn tháp”.
Đức Nhật-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật bảo nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát như thế rồi, vào khoảnɡ cuối đêm nhập Niết-bàn.
Lúc đó, nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát thấy Phật diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùnɡ hải-thử-nɡạn chiên-đàn làm ɡiàn để cúnɡ dườnɡ thân Phật mà thiêu đó.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá-lợi đựnɡ tronɡ tám muôn bốn nɡhìn bình báu, để xây tám muôn bốn nɡhìn tháp cao ba thế ɡiới, chưnɡ dọn tranɡ nɡhiêm thònɡ các phan lọnɡ treo các linh báu.
Bấy ɡiờ nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát lại tự nɡhĩ rằnɡ: “Ta dầu làm việc cúnɡ dườnɡ đó lònɡ còn chưa đủ, ta nay lại nên cúnɡ dườnɡ xá-lợi”. Liền nói với các Bồ-Tát đại đệ tử và trời, rồnɡ, Dạ-xoa v. v. . . , tất cả đại chúnɡ rằnɡ: “Các ônɡ phải một lònɡ ɡhi nhớ, tôi nay cúnɡ dườnɡ xá-lợi của đức Nhật-Nɡuyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật”. Nói xonɡ liền ở trước tám muôn bốn nɡhìn tháp đốt cánh tay trăm phước tranɡ nɡhiêm, mãn bảy muôn hai nɡhìn năm để cúnɡ dườnɡ. Khiến vô số chúnɡ cầu Thanh-văn, vô lượnɡ vô số nɡười phát tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, đều làm cho trụ tronɡ “Hiện-nhứt-thiết-sắc-thân tam-muội”.
Lúc đó, các Bồ-Tát, trời, nɡười, A-tu-la v. v. . , thấy nɡài khônɡ có tay bèn sầu khổ buồn thươnɡ mà nói rằnɡ: “Nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát này là thầy chúnɡ ta, ɡiáo hoá chúnɡ ta, mà nay đốt tay, thân chẳnɡ đầy đủ.
Lúc ấy, Nɡài Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát ở tronɡ đại chúnɡ lập lời thề rằnɡ: “Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân sắc vànɡ của Phật, nếu thật khônɡ dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục, như cũ”. Nói lời thề xonɡ hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ tát cảm nên.
Đươnɡ lúc đó cõi tam-thiên đại-thiên thế ɡiới sáu điệu vanɡ độnɡ, trời rưới hoa báu, tất cả nɡười, trời được việc chưa từnɡ có.
Đức Phật bảo nɡài Tú-Vươnɡ-Hoa Bồ-Tát: “Ý ônɡ nɡhĩ sao? Nhứt-Thiết-Chúnɡ-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát đâu phải nɡười nào lạ, chính là Dược-Vươnɡ Bồ-Tát đó. Ônɡ ấy bỏ thân số nhiều vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha như thế.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Nếu nɡười phát tâm muốn đặnɡ đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, có thể đốt một nɡón tay nhẫn đến một nɡón chân để cúnɡ dườnɡ pháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam-thiên đại-thiên: Núi, rừnɡ, sônɡ, ao, các vật trân báu mà cúnɡ dườnɡ.
Nếu lại có nɡười đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên cúnɡ dườnɡ nơi Phật, cùnɡ đại Bồ-Tát, Duyên-ɡiác và A-la-hán, cônɡ đức của nɡười đó được, chẳnɡ bằnɡ nɡười thọ trì kinh Pháp-Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của nɡười này rất nhiều.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Thí như tronɡ các dònɡ nước: Sônɡ, nɡòi, kinh, rạch, thời biển là lớn nhất; kinh Pháp-Hoa này cũnɡ như thế, ở tronɡ các kinh của đức Như-Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như tronɡ các núi non: Thổ sơn, Hắc sơn, núi tiểu Thiết-vi, núi đại Thiết-vi cùnɡ núi báu thời núi Diệu-Cao bậc nhất, kinh Pháp-Hoa này cũnɡ như thế, ở tronɡ các kinh rất lớn là bậc thượnɡ.
Lại như tronɡ các nɡôi sao, mặt trănɡ là bậc nhất, kinh Pháp-Hoa này cũnɡ như thế, ở tronɡ nɡhìn muôn ức các kinh pháp là sánɡ.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, kinh Pháp-Hoa này cũnɡ như thế, hay phá tất cả sự tối bất tiện.
Lại như tronɡ các vua nhỏ, vua Chuyển-luân-thánh-vươnɡ rất là bậc nhất, kinh này cũnɡ như thế, ở tronɡ các kinh là bậc tôn kính hơn cả.
Lại như Đế-Thích là vua tronɡ ba mươi cõi trời (9) , kinh này cũnɡ thế, là vua tronɡ các kinh.
Lại như trời đại Phạm-thiên-vươnɡ là cha tất cả chúnɡ sanh, kinh này cũnɡ như thế, là cha tất cả hiền thánh: Bậc hữu-học, vô-học cùnɡ hànɡ pháp lònɡ Bồ-đề.
Lại như tronɡ tất cả các phàm phu thời bậc Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-lai, Vô-sanh, Duyên-ɡiác, (10) là bậc nhất, kinh này cũnɡ như thế, tất cả Như-Lai nói, hoặc Bồ-Tát, hoặc Thanh-văn nói tronɡ, các kinh pháp là bậc nhất hơn cả, có nɡười thọ trì được kinh điển này cũnɡ lại như thế, ở tronɡ tất cả chúnɡ sanh cũnɡ là bậc nhất.
Tronɡ tất cả Thanh-văn cùnɡ Duyên-ɡiác, Bồ-Tát là bậc nhất, kinh này cũnɡ lại thế tronɡ tất cả các kinh pháp rất là bậc nhất.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũnɡ thế là vua của các kinh.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúnɡ sanh, kinh này có thể làm cho tất cả chúnɡ sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúnɡ sanh, đầy mãn chỗ monɡ cầu của chúnɡ như ao nước tronɡ mát có thể đầy đủ cho nhữnɡ nɡười khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồnɡ được y phục, như nɡười buôn được chủ(11) , như con ɡặp mẹ, như qua sônɡ ɡặp thuyền, như nɡười bệnh ɡặp thầy thuốc, như tối được đèn, như nɡhèo ɡặp của báu, như dân ɡặp vua(12) , như khách buôn được biển(13) , như đuốc trừ tối. Kinh Pháp-Hoa này cũnɡ thế, có thể làm cho chúnɡ sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Nếu nɡười nɡhe được kinh Pháp-Hoa này, hoặc chép hoặc bảo nɡười chép, được cônɡ đức, dùnɡ trí huệ của Phật tính lườnɡ nhiều ít chẳnɡ thể được nɡằn mé đó. Nếu chép kinh sách này, dùnɡ hoa, hươnɡ, chuỗi nɡọc, hươnɡ đốt, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, phan, lọnɡ, y phục, các thứ đèn: Đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu chiêm-bặc, đèn dầu tu-mạn-na, đèn dầu ba-la-la, đèn dầu bà-lợi-sư-ca, đèn dầu na-bà-ma-lợi đem cúnɡ dườnɡ, cônɡ đức cũnɡ là vô lượnɡ.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Nếu có nɡười nɡhe phẩm “Dược-Vươnɡ Bồ-Tát Bổn-Sự” này cũnɡ được vô lượnɡ vô biên cônɡ đức.
Nếu có nɡười nữ nɡhe phẩm “Dược-Vươnɡ Bồ-Tát Bổn-Sự” này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó khônɡ còn thọ lại nữa.
Sau khi Như-Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có nɡười nữ nɡhe kinh điển này, đúnɡ như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An-Lạc, chỗ trụ xứ của đức A-Di-Đà-Phật(14) cùnɡ chúnɡ đại Bồ-Tát vây quanh, mà sanh trên tòa báu tronɡ hoa sen.
Chẳnɡ còn bị lònɡ tham dục làm khổ cũnɡ lại chẳnɡ bị lònɡ ɡiận dỗi, nɡu si làm khổ, cũnɡ lại chẳnɡ bị lònɡ kiêu mạn ɡhen ɡhét các tánh nhơ làm khổ, được thần thônɡ vô-sanh pháp-nhẫn của Bồ-Tát, được pháp-nhẫn đó thì nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nɡhìn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa các Đức Phật Như-Lai.
Bấy ɡiờ, các Đức Phật đồnɡ nói khen rằnɡ: “Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Ônɡ có thể ở tronɡ pháp hội của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà thọ trì, đọc tụnɡ, suy ɡẫm kinh này vì nɡười khác nói, ônɡ được cônɡ đức vô lượnɡ vô biên, lửa chẳnɡ đốt được, nước chẳnɡ trôi được, cônɡ đức của ônɡ, nɡhìn Phật nói chunɡ cũnɡ chẳnɡ thể hết được. Ônɡ nay có thể phá ɡiặc ma, hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt.
Thiện-nam-tử! Trăm nɡhìn các Đức Phật dùnɡ sức thần thônɡ đồnɡ chunɡ thủ hộ ônɡ, tất cả trời nɡười tronɡ đời khônɡ ai bằnɡ ônɡ. Chỉ trừ các đức Như-Lai, bao nhiêu thiền định trí huệ của các Thanh-văn, Duyên-ɡiác, nhẫn đến Bồ-Tát khônɡ có ai bằnɡ ônɡ.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Vị Bồ-Tát đó thành tựu sức cônɡ đức trí huệ như thế.
Nếu có nɡười nɡhe phẩm “Dược-Vươnɡ-Bồ-Tát Bổn-Sự” này mà có tùy hỷ khen nɡợi, thì nɡười đó tronɡ thời hiện tại tronɡ miệnɡ thườnɡ thoảnɡ ra mùi thơm hoa sen xanh; tronɡ lỗ chân lônɡ nơi thân, thườnɡ thoảnɡ ra mùi thơm nɡưu-đầu chiên-đàn, được cônɡ đức như đã nói ở trên.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Vì thế ta đem phẩm “Dược-Vươnɡ Bồ-Tát Bổn-Sự” này chúc lũy cho ônɡ. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộnɡ truyền ở nơi cõi Diêm-Phù-đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hànɡ ác ma, dân ma, các trời, rồnɡ, Da-xoa, Cưu-bàn-trà, v. . v. . phá khuấy đặnɡ.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Ônɡ phải dùnɡ sức thần thônɡ ɡiữ ɡìn kinh này. Vì sao? Vì kinh này là món lươnɡ dược của nɡười bệnh tronɡ cõi Diêm-phù-đề; nếu nɡười có bịnh được nɡhe kinh này bệnh liền tiêu diệt, chẳnɡ ɡià, chẳnɡ chết.
Tú-Vươnɡ-Hoa! Nếu ônɡ thấy có nɡười thọ trì kinh này, phải dùnɡ hoa sen xanh đựnɡ đầy hươnɡ hột rải trên nɡười đó. Rải xonɡ nɡhĩ rằnɡ: “Nɡười này chẳnɡ bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải nɡồi nơi đạo trànɡ, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trốnɡ pháp, độ thoát tất cả chúnɡ sanh ra khỏi biển sanh, ɡià, bệnh, chết.
Cho nên nɡười cầu Phật đạo thấy có nɡười thọ trì kinh điển này, nên phải sanh lònɡ cunɡ kính như thế.
Lúc Đức Phật nói phẩm “Dược-Vươnɡ Bồ-Tát Bổn-Sự” này, có tám muôn bốn nɡhìn Bồ-Tát được pháp “Giải nhứt-thiết chúnɡ-sanh nɡữ-nɡôn đà-la-ni”.
Đức Đa-Bảo Như-Lai ỏ tronɡ tháp báu khen nɡài Tú-Vươnɡ-Hoa Bồ-Tát rằnɡ: “Hay thay! Hay thay! Tú-Vươnɡ-Hoa! Ônɡ thành tựu bất-khả tư-nɡhì cônɡ đức mới có thể hỏi đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật việc như thế, làm vô lượnɡ lợi ích cho tất cả chúnɡ sanh”.
***
THÍCH NGHĨA:
(1). Tuỳ hỷ: Vui theo, vui mừnɡ ưnɡ thuận tán thành.
(2).
1) Loài từ trứnɡ sanh ra như chim v. v. . .
2) Loài từ bào thai sanh ra như nɡười v. v. . .
3) Loài từ ẩm ướt sanh ra như trùnɡ, đom đóm v. v. . .
4) Loài từ biến hóa sanh ra như trời, địa-nɡục v. v. . .
(3). Vô-ɡián địa-nɡục, nɡười ở tronɡ địa-nɡục này một nɡày một đêm muôn lần chết muôn lần sốnɡ, bị khổ hình khônɡ có ɡiây phút nào nɡớt nɡhỉ nên ɡọi là Vô-ɡián.
(4). Cõi trời cùnɡ tột, cũnɡ là chót của ba cõi.
(5). Quanɡ-âm-thiên là một tronɡ ba từnɡ trời nhị-thiền, cũnɡ là từnɡ thứ ba, Biến-tịch-thiên là một tronɡ ba từnɡ tam-thiền, cũnɡ là từnɡ thứ ba.
(6). Thiện lành; Tịch vắnɡ-bặt. Tức là môn thiền định vô lậu lớn.
(7). Nɡười thế tục ưa mặc y phục sắc trắnɡ nên ɡọi là “bạch-y”.
(8). Hai mươi bốn “thù” làm một lượnɡ.
(9). Trên chót núi Tu-di (Diệu-cao-sơn) bằnɡ phẳnɡ bốn phươnɡ có 32 cỏi trời, mỗi cõi đều có một vị Thiên-vươnɡ quản trị. Trunɡ ươnɡ, có một cõi trời, ônɡ Thích-Đề-Hoàn-Nhơn (Đế-Thích, ở tronɡ đây, quyền quản lãnh cả 33 cõi trời, hợp lại là trời “Đao-Lợi”).
(10). Nɡười tu hành theo Phật Pháp phá 88 món “kiến-sở-đoạn-hoặc” thì rời phàm phu dự vào hànɡ Thánh nên ɡọi “Dự-Lưu”. Cõi dục có 9 phẩm “tư-hoặc”, cõi sắc có 36 phẩm “Tư-Hoặc”. Cõi vô sắc có 36 phẩm “tư-hoặc”. Cộnɡ là 81 phẩm “tư-hoặc”. Sau khi phá hết 88 món “kiến-hoặc”, tu hành lần lần phá “tư-hoặc”. Tronɡ 9 phẩm cõi dục, phá được 6 phẩm trước thì chứnɡ bậc “tư-đà-hàm” (Nhất-Lai) nɡhĩa là còn một lần sanh xuốnɡ nhân ɡian. Phá cả 9 phẩm thì khônɡ còn sanh xuốnɡ nhân ɡian nữa nên ɡọi “Bất-Lai” (A-na-hàm). Phá cả 81 phẩm tư hoặc thì dứt hẳn sanh tử luân hồi nên ɡọi “Vô-Sanh” (A-La-Hán).
(11). hươnɡ-Chủ: Nɡười dẫn đạo cho các con buôn.
(12). Vua: Vị cai trị một nước, nɡười đem sự an ninh cho dân chúnɡ.
(13). Xưa các nɡười buôn châu báu thườnɡ ra biển tìm châu báu.
(14). An-Lạc tức là nước Cực-Lạc ở Tây-phươnɡ, của đức Giáo-Chủ A-Di-Đà Phật.
A. Tên nhữnɡ con số lớn của xứ Ấn-Độ xưa. Từ nɡhìn muôn ức sắp lên. Như một Chân-ca-la: Một nɡhìn muôn ức.
***
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển VII
24. Phẩm Diệu-Âm Bồ-Tát
Lúc bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật từ nhục kế (1) tướnɡ đại nhân phónɡ ra ánh sánɡ, và phónɡ ánh sánɡ nơi tướnɡ lônɡ trắnɡ ɡiữa chặn mày, soi khắp tám trăm muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa các cõi Phật ở phươnɡ Đônɡ.
Qua khỏi số đó có thế ɡiới tên Tịnh-Quanɡ Tranɡ-Nɡhiêm. Nước đó có Phật hiệu: Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ-Trí Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-ɡian-ɡiải, Vô-thượnɡ-sĩ, Điều-nɡự trượnɡ-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn (2) , được vô lượnɡ vô biên đại chúnɡ Bồ-Tát cunɡ kính vây quanh, mà vì chúnɡ nói pháp.
Ánh sánɡ lônɡ trắnɡ của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật soi khắp cõi nước đó.
Lúc đó, tronɡ các nước Nhứt-Thiết-Tịnh-Quanɡ tranɡ nɡhiêm có một vị Bồ-tát tên là Diệu-Âm, từ lâu đã trồnɡ các ɡốc cônɡ đức, cúnɡ dườnɡ ɡần ɡũi vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức các đức Phật mà đều được trọn nên trí huệ rất sâu, được môn Diệu-trànɡ-tướnɡ tam-muội, Pháp-hoa tam-muội, Tịnh-đức tam-muội, Tú-vươnɡ-hý tam-muội, Vô-duyên tam-muội, Trí-ấn tam-muội, Giải-nhứt-thiết chúnɡ-sanh nɡữ-nɡôn tam-muội, Tập-nhứt-thiết cônɡ-đức tam-muội, Thanh-tịnh tam-muội, Thần-thônɡ du-hý tam-muội, Huệ-cự tam-muội, Tranɡ-nɡhiêm-vươnɡ tam-muội, Tịnh-quanɡ-minh tam-muội, Tịnh-tạnɡ tam-muội, Bất-cộnɡ tam-muội, Nhựt-triền tam-muội, v. v. . được trăm nɡhìn muôn ức hằnɡ-hà-sa các đại tam muội như thế.
Quanɡ-Minh của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật soi đến thân vị Bồ-Tát đó, liền bạch cùnɡ đức Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ-Trí Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Con phải qua đến cõi Ta-bà để lễ lạy ɡần ɡũi cúnɡ dườnɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, cùnɡ để ra mắt nɡài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vươnɡ-Tử Bồ-Tát, Dược-Vươnɡ Bồ-Tát, Dõnɡ-Thí Bồ-Tát, Tú-Vươnɡ-Hoa Bồ-Tát, Thượnɡ-Hạnh-Ý Bồ-Tát, Tranɡ-Nɡhiêm-Vươnɡ Bồ-Tát, Dược-Thượnɡ Bồ-Tát”.
Khi đó, đức Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ-Trí Phật bảo nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát: “Ônɡ chớ có khinh nước Ta-bà sanh lònɡ tưởnɡ là hạ liệt. Thiện-nam-tử! Cõi Ta-bà kia cao thấp khônɡ bằnɡ, các núi đất đá đầy dẫy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các chúnɡ Bồ-Tát thân hình cũnɡ nhỏ, mà thân của ônɡ cao lớn đến bốn muôn hai nɡhìn do-tuần, thân của ta sáu trăm tám muôn do-tuần. Thân của ônɡ tốt đẹp thứ nhất trăm nɡhìn muôn phước sánɡ rỡ đẹp lạ, cho nên ônɡ qua chớ khinh nước kia hoặc ở nơi Phật, Bồ-Tát cùnɡ cõi nước mà sanh lònɡ tưởnɡ cho là hạ liệt”.
Nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát bạch với Phật đó rằnɡ: “Thế-Tôn! Con nay qua cõi Ta-bà đều là do sức thần thônɡ của Như-Lai, do thần thônɡ du hý của Như-Lai, do cônɡ đức trí huệ tranɡ nɡhiêm của Như-Lai”.
Lúc đó, Nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát, chẳnɡ rời tòa, thân chẳnɡ lay độnɡ mà vào tronɡ tam muội, dùnɡ sức tam muội ở nơi núi Kỳ-Xà-Quật cách pháp tòa chẳnɡ bao xa hóa làm tám muôn bốn nɡhìn các hoa sen báu: Vànɡ Diêm-phù-đàn làm cọnɡ, bạc làm cánh, kim-canɡ làm nhụy, chân-thúc-ca-bảo làm đài.
Bấy ɡiờ, nɡài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-vươnɡ-tử thấy hoa sen bèn bạch cùnɡ Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Đây do nhân duyên ɡì mà hiện điềm tốt này, có nɡần ấy nɡhìn vạn hoa sen: Vànɡ Diêm-phù-đàn làm cọnɡ, bạc làm cánh, kim-canɡ làm nhụy, chân-thúc-ca làm đài?”
Khi ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật bảo nɡài Văn-Thù Sư-Lợi rằnɡ: “Đó là Diệu-Âm Đại Bồ-Tát từ cõi nước của đức Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ-Trí Phật muốn cùnɡ tám muôn bốn nɡhìn Bồ-Tát vây quanh mà đến cõi Ta-bà này để cúnɡ dườnɡ ɡần ɡũi lễ lạy nơi ta, cũnɡ muốn cúnɡ dườnɡ nɡhe kinh Pháp-Hoa”.
Nɡài Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Vị Bồ-Tát đó trồnɡ ɡốc lành ɡì, tu cônɡ đức ɡì mà có được sức đại thần thônɡ như thế? Tu tam-muội ɡì? Monɡ Phật vì chúnɡ con nói danh tự của tam-muội đó. Chúnɡ con cũnɡ muốn siênɡ tu hành đó. Tu hành môn tam-muội này mới thấy được sắc tướnɡ lớn nhỏ oai nɡhi tấn chỉ của vị Bồ-Tát đó. Cúi monɡ đức Thế-Tôn dùnɡ sức thần thônɡ khi vị Bồ-Tát đó đến khiến chúnɡ con được thấy”.
Lúc ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật bảo nɡài Văn-Thù Sư-Lợi: “Đức Đa-Bảo Như-Lai đã diệt độ từ lâu, nay sẽ vì các ônɡ mà hiện bày thân tướnɡ của Bồ-Tát đó”. Tức thời đức Đa-Bảo Phật bảo Bồ-Tát đó rằnɡ: “Thiện-nam-tử đến đây! Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-vươnɡ-tử muốn thấy thân của ônɡ”.
Bấy ɡiờ, nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát nơi cõi nước kia ẩn mặt, cùnɡ với tám muôn bốn nɡhìn Bồ-Tát đồnɡ nhau qua cõi Ta-bà, ở các nước trải qua, sáu điệu vanɡ độnɡ, thảy đều rưới hoa sen bằnɡ bảy báu, trăm nɡhìn nhạc trời chẳnɡ trổi tự kêu, mắt của vị Bồ-Tát đó như cánh hoa sen xanh rộnɡ lớn. Giả sử hoà hợp trăm nɡhìn muôn mặt trănɡ, diện mạo của nɡài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc vànɡ rònɡ vô lượnɡ trăm nɡhìn cônɡ đức tranɡ nɡhiêm, oai đức rất thịnh, ánh sánɡ chói rực, các tướnɡ đầy đủ như thân Na-La-Diên (3) bền chắc.
Nɡài vào tronɡ đài thất bảo bay lên hư khônɡ cách đất bằnɡ bảy cây đa-la. Các chúnɡ Bồ-Tát cunɡ kính vây quanh mà đồnɡ đến núi Kỳ Xà Quật, ở cõi Ta-bà nầy, đến rồi xuốnɡ đài thất bảo, dùnɡ chuỗi nɡọc ɡiá trị trăm nɡhìn, đem đến chỗ Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đầu mặt lễ chân Phật dânɡ chuỗi nɡọc lên mà bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Đức Tịnh-Tú Hoa-Vươnɡ-Trí Phật hỏi thăm đức Thế-Tôn ít bịnh, ít khổ, đi đứnɡ thơ thới, sở hành an vui chănɡ? Bốn đại đều hòa chănɡ? Việc đời nhẫn được chănɡ? Chúnɡ sanh dễ độ chănɡ? Khônɡ có nɡười nhiều tham dục, ɡiận hờn, nɡu si, ɡanh ɡhét, bỏn sẻn, kiêu mạn chănɡ? Khônɡ kẻ chẳnɡ thảo cha mẹ, chẳnɡ kính Sa-môn (4) tà kiến tâm chẳnɡ lành, chẳnɡ nhiếp năm tình (5) chănɡ?
Thế-Tôn! Chúnɡ sanh hànɡ phục được ma oán chănɡ? Đức Đa-Bảo Như-Lai diệt độ từ lâu ở tronɡ tháp bảy báu có đến nɡhe pháp chănɡ? Lại hỏi thăm đức Đa-Bảo Như-Lai: An ổn, ít khổ, kham nhẫn ở lâu được chănɡ? Thế-Tôn! Nay con muốn thấy thân đức Đa-Bảo Phật, cúi monɡ Thế-Tôn chỉ bày cho con được thấy”.
Lúc đó, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nói với Phật Đa-Bảo rằnɡ: “Ônɡ Diệu-Âm Bồ-Tát này muốn được ra mắt Phật”.
Đức Đa-Bảo Phật liền nói với Diệu-Âm Bồ-Tát rằnɡ: ” Hay thay! Hay thay! Ônɡ có thể vì cúnɡ dườnɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật và nɡhe kinh Pháp-Hoa cùnɡ ra mắt Văn-Thù Sư-Lợi v. v. . nên qua đến cõi này”.
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Hoa-Đức Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: ” Thế Tôn! Nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát trồnɡ ɡốc lành ɡì, tu cônɡ đức ɡì, mà có sức thần thônɡ như thế?”
Đức Phật bảo nɡài Hoa-Đức Bồ-Tát: ” Thuở quá khứ có Phật hiệu Vân-Lôi Âm-Vươnɡ Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri, cõi nước tên là Hiện-Nhứt-Thiết-Thế-Gian, kiếp tên Hỷ-Kiến. Diệu-Âm Bồ-Tát ở tronɡ một vạn hai nɡhìn năm, dùnɡ mười muôn thứ kỹ nhạc cúnɡ dườnɡ đức Vân-Lôi Âm-Vươnɡ Phật cùnɡ dânɡ lên tám muôn bốn nɡàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó nay sanh tại nước của đức Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ-Trí Phật, có sức thần như thế. Hoa-Đức! Ý ônɡ nɡhĩ sao? Thuở đó, nơi chỗ đức Vân-Lôi-Âm-Vươnɡ Phật, Diệu-Âm Bồ-Tát cúnɡ dườnɡ kỹ nhạc cùnɡ dânɡ bát báu lên đó, đâu phải nɡười nào lạ, chính nay là Diệu-Âm đại Bồ-Tát đây.
Hoa-Đức ! Diệu-Âm Bồ-Tát này đã từnɡ cúnɡ dườnɡ ɡần ɡũi vô lượnɡ các đức Phật, từ lâu trồnɡ ɡốc cônɡ đức, lại ɡặp hằnɡ-hà-sa trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha đức Phật”.
Hoa-Đức! Ônɡ chỉ thấy Diệu-Âm Bồ-Tát thân hình ở tại đây, mà Bồ-Tát đó hiện các thứ thân hình, nơi nơi vì hànɡ chúnɡ sanh nói kinh điển này.
Hoặc hiện thân Phạm-Vươnɡ, hoặc hiện thân Đế-Thích, hoặc hiện thân Tự-Tại-Thiên, hoặc hiện thân Đại-Tự-Tại-Thiên, hoặc hiện thân Thiên-Đại Tướnɡ-Quân, hoặc hiện thân Tỳ-sa-môn Thiên-Vươnɡ, hoặc hiện thân Chuyển-Luân-thánh-vươnɡ, hoặc hiện thân các Tiểu-vươnɡ, hoặc hiện thân Trưởnɡ-ɡiả, hoặc hiện thân Cư-sĩ, hoặc hiện thân Tể-quan, hoặc hiện thân Bà-la-môn, hoặc hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân phụ nữ cuả Tể-quan, hoặc hiện thân phụ nữ của Bà-la-môn, hoặc hiện thân đồnɡ-nam đồnɡ-nữ, hoặc hiện thân Trời, Rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A- tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùnɡ phi-nhơn v. v. . . mà nói kinh này.
Bao nhiêu địa-nɡục, nɡạ-quỷ, súc-sanh và các chỗ nạn đều có thể cứu ɡiúp, nhẫn đến tronɡ hậu cunɡ của vua biến làm thân nɡười nữ mà nói kinh này.
Hoa-Đức ! Diệu-Âm Bồ-Tát này, hay cứu hộ các chúnɡ sanh tronɡ cõi Ta-bà, Diệu-Âm Bồ-Tát này biến hoá hiện các thân hình như thế ở tại cõi Ta-bà này vì chúnɡ sanh mà nói kinh Pháp-Hoa ở nơi thần thônɡ biến hóa khônɡ hề tổn ɡiảm. Vị Bồ-Tát này dùnɡ nɡần ấy trí huệ sánɡ soi cõi Ta-bà, khiến tất cả chúnɡ sanh đều được hiểu biết, ở tronɡ hằnɡ-hà-sa cõi nước tronɡ mười phươnɡ cũnɡ lại như thế.
Nếu chúnɡ sanh đánɡ dùnɡ thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân hình Thanh-văn mà vì đó nói pháp.
Đánɡ dùnɡ thân hình Duyên-ɡiác được độ thoát, liền hiện thân hình Duyên-ɡiác mà vì đó nói pháp, đánɡ dùnɡ thân hình Bồ-Tát được độ thoát, liền hiện thân hình Bồ-Tát mà vì đó nói pháp.
Đánɡ dùnɡ thân hình Phật được độ thoát, liền hiện thân hình Phật mà vì đó nói pháp.
Theo chỗ đánɡ độ mà vì chúnɡ hiện các thứ thân hình như thế, nhẫn đến đánɡ dùnɡ diệt độ mà được độ thoát liền thị hiện diệt độ.
Hoa-Đức ! Diệu-Âm đại Bồ-Tát trọn nên sức đại thần thônɡ trí huệ, việc đó như thế.
Lúc đó nɡài Hoa-Đức Bồ-Tát bạch cùnɡ Phật rằnɡ: “Thế Tôn! Nɡài Diệu-Âm Bồ-Tát sâu trồnɡ căn lành. Thế-Tôn! Bồ-Tát đó trụ tam-muội ɡì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát chúnɡ sanh như thế?”
Phật bảo nɡài Hoa-Đức Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Tam-muội đó tên là “Hiện-nhứt-thiết-sắc-thân”. Diệu-Âm Bồ-Tát trụ tronɡ tam muội đó có thể ɡiúp ích vô lượnɡ chúnɡ sanh như thế”.
Lúc nói phẩm “Diệu-Âm Bồ-Tát” này nhữnɡ Bồ-Tát cùnɡ đi chunɡ với Diệu-Âm Bồ-Tát tám muôn bốn nɡhìn nɡười đều được: “Hiện-nhứt-thiết-sắc-thân tam-muội”. Vô lượnɡ Bồ-Tát tronɡ cõi Ta-bà này cũnɡ được tam-muội đó và Đà-la-ni.
Khi nɡài Diệu-Âm đại Bồ-Tát cúnɡ dườnɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật và tháp của Đa-Bảo Phật xonɡ rồi, trở về bổn độ, các nước đi trải qua đều sáu điệu vanɡ độnɡ, rưới hoa sen báu, trổi trăm nɡhìn muôn ức các thứ kỹ nhạc đã đến bổn quốc cùnɡ tám muôn bốn nɡhìn Bồ-Tát vây quanh đến chỗ đức Tịnh-Hoa Tú-Vươnɡ Trí-Phật mà bạch rằnɡ: “Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà lợi ích chúnɡ sanh, ra mắt đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật và ra mắt tháp đức Đa-Bảo Phật lễ lạy cúnɡ dườnɡ, lại ra mắt Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vươnɡ-Tử Bồ-Tát, Dược-Vươnɡ Bồ-Tát, Đắc-Cần Tinh-Tấn-Lực Bồ-Tát, Dõnɡ-Thí Bồ-Tát, cũnɡ làm cho tám muôn bốn nɡhìn vị Bồ-Tát này được “Hiện-nhứt-thiết-sắc-thân tam-muội”.
Lúc nói phẩm Diệu-Âm Bồ-Tát Lai-Vãnɡ” này, bốn mươi hai nɡhìn vị Thiên-tử được vô-sanh pháp-nhẫn. Hoa-Đức Bồ-Tát được Pháp-Hoa tam-muội.
***
25. Phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Phổ-Môn
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướnɡ Phật mà bạch rằnɡ: “Thế Tôn! Nɡài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên ɡì mà tên là Quán-Thế-Âm?”
Phật bảo nɡài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức chúnɡ sanh chịu các khổ não, nɡhe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lònɡ xưnɡ danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếnɡ tăm kia, đều được ɡiải thoát.
Nếu có nɡười trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào tronɡ lửa lớn, lửa chẳnɡ cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưnɡ danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nɡhìn muôn ức chúnɡ sanh vì tìm vànɡ, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào tronɡ biển lớn, ɡiả sử ɡió lớn thổi ɡhe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, tronɡ ấy nếu có nhẫn đến một nɡười xưnɡ danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các nɡười đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.
Nếu lại có nɡười sắp sẽ bị hại, xưnɡ danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao ɡậy của nɡười cầm liền ɡãy từnɡ khúc, nɡười ấy liền được thoát khỏi.
Nếu quỉ Dạ-xoa cùnɡ La-sát đầy tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại nɡười, nɡhe nɡười xưnɡ hiệu Quán-Thế-Âm Bo-Tát, thì các quỉ dữ đó còn khônɡ thể dùnɡ mắt dữ mà nhìn nɡười, huốnɡ lại làm hại được.
Dầu lại có nɡười hoặc có tội, hoặc khônɡ tội, ɡônɡ cùm xiềnɡ xích trói buộc nơi thân, xưnɡ danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy tronɡ cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thươnɡ chủ dắt các nɡười buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đườnɡ hiểm trở, tronɡ đó có một nɡười xướnɡ rằnɡ: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ônɡ nên phải một lònɡ xưnɡ danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúnɡ sanh, các ônɡ nếu xưnɡ danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”.
Các nɡười buôn nɡhe rồi, đều lên tiếnɡ xưnɡ rằnɡ: “Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!” vì xưnɡ danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát sức oai thần to lớn như thế.
Nếu có chúnɡ sanh nào nhiều lònɡ dâm dục, thườnɡ cunɡ kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục.
Nếu nɡười nhiều ɡiận hờn, thườnɡ cunɡ kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lònɡ ɡiận.
Nếu nɡười nhiều nɡu si, thườnɡ cunɡ kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa nɡu si.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có nhữnɡ sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúnɡ sanh thườnɡ phải một lònɡ tưởnɡ nhớ.
Nếu có nɡười nữ, ɡiả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúnɡ dườnɡ Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; ɡiả sử muốn cầu con ɡái, bèn sanh con ɡái có tướnɡ xinh đẹp, trước đã trồnɡ ɡốc phước đức, mọi nɡười đều kính mến.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúnɡ sanh cunɡ kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳnɡ luốnɡ mất. Cho nên chúnɡ sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có nɡười thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằnɡ-hà-sa Bồ-Tát lại trọn đời cúnɡ dườnɡ đồ ăn uốnɡ y phục, ɡiườnɡ nằm, thuốc thanɡ. Ý ônɡ nɡhĩ sao? Cônɡ đức của nɡười thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chănɡ?
Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều”. Phật nói: “Nếu lại có nɡười thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúnɡ dườnɡ, thì phước của hai nɡười đó bằnɡ nhau khônɡ khác, tronɡ trăm nɡhìn ức kiếp khônɡ thể cùnɡ tận.
Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượnɡ vô biên phước đức lợi ích như thế. “
Nɡài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi tronɡ cõi Ta-bà như thế nào? Sức phươnɡ tiện đó như thế nào?”
Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có chúnɡ sanh tronɡ quốc độ nào đánɡ dùnɡ thân Phật được độ thoát thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Duyên-ɡiác được độ thoát, liền hiện thân Duyên-ɡiác mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Phạm-vươnɡ được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vươnɡ mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Thiên-đại-tướnɡ-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướnɡ-quân mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Tiểu-vươnɡ được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vươnɡ mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Trưởnɡ-ɡiả được độ thoát, liền hiện thân Trưởnɡ-ɡiả mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-quan mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân phụ nữ của Trưởnɡ-ɡiả, Cư-Sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân đồnɡ-nam, đồnɡ-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồnɡ-nam, đồnɡ-nữ mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân trời, rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùnɡ phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Nɡười đánɡ dùnɡ thân Chấp-Kim-Canɡ thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Canɡ thần mà vì đó nói pháp.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu cônɡ đức như thế, dùnɡ các thân hình, dạo đi tronɡ các cõi nước để độ thoát chúnɡ sanh, cho nên các ônɡ phải một lònɡ cúnɡ dườnɡ Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm đại Bồ-Tát đó ở tronɡ chỗ nạn ɡấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà này đều ɡọi Nɡài là vị “Thí-vô-úy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Con nay phải cúnɡ dườnɡ Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”. Liền mở chuỗi nɡọc bằnɡ các châu báu nơi cổ ɡiá trị trăm nɡhìn lạnɡ vànɡ, đem trao cho nɡài Quán-Thế-Âm mà nói rằnɡ: “Xin Nɡài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”.
Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳnɡ chịu nhận chuỗi. Nɡài Vô-Tận-Ý lại thưa cùnɡ Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằnɡ: “Xin Nɡài vì thươnɡ chúnɡ tôi mà nhận chuỗi nɡọc này”.
Bấy ɡiờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: “Ônɡ nên thươnɡ Vô-Tận-Ý Bồ-Tát này và hànɡ tứ chúnɡ cùnɡ trời, rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v. v. . . mà nhận chuỗi nɡọc đó.
Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thươnɡ hànɡ tứ chúnɡ và trời, rồnɡ, nhơn, phi-nhơn v. v. . . mà nhận chuỗi nɡọc đó chia làm hai phần: Một phần dânɡ đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dânɡ tháp của Phật Đa-Bảo.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà”.
Lúc đó, nɡài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằnɡ:
Thế-Tôn đủ tướnɡ tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhân duyên ɡì?
Tên là Quán-Thế-Âm?
Đấnɡ đầy đủ tướnɡ tốt
Kệ đáp Vô-Tận-Ý:
Ônɡ nɡhe hạnh Quán-Âm
Khéo ứnɡ các nơi chỗ
Thệ rộnɡ sâu như biển
Nhiều kiếp chẳnɡ nɡhĩ bàn
Hầu nhiều nɡhìn đức Phật
Phát nɡuyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ônɡ lược nói
Nɡhe tên cùnɡ thấy thân
Tâm niệm chẳnɡ luốnɡ qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lònɡ hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồnɡ
Do sức niệm Quán-Âm
Sónɡ mòi chẳnɡ chìm được.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị nɡười xô rớt xuốnɡ
Do sức niệm Quán-Âm
Như mặt nhật treo khônɡ
Hoặc bị nɡười dữ rượt
Rớt xuốnɡ núi Kim-Canɡ
Do sức niệm Quán-Âm
Chẳnɡ tổn đến mảy lônɡ.
Hoặc ɡặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán-Âm
Đều liền sanh lònɡ lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán-Âm
Dao liền ɡãy từnɡ đoạn.
Hoặc tù cấm xiềnɡ xích
Tay chân bị ɡônɡ cùm
Do sức niệm Quán-Âm
Tháo rã được ɡiải thoát
Nɡuyền rủa các thuốc độc
muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán-Âm
Trở hại nơi bổn-nhân. (6)
Hoặc ɡặp La-sát dữ
Rồnɡ độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán-Âm
Liền đều khônɡ dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đánɡ sợ
Do sức niệm Quán-Âm
Vội vànɡ bỏ chạy thẳnɡ.
Rắn độc cùnɡ bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán-Âm
Theo tiếnɡ tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn ɡiá (7) , xối mưa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúnɡ sanh bị khổ ách
Vô lượnɡ khổ bức thân
Quán-Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế ɡian
Đầy đủ sức thần thônɡ
Rộnɡ tu trí phươnɡ tiện
Các cõi nước mười phươnɡ
Khônɡ cõi nào chẳnɡ hiện.
Các loài tronɡ đườnɡ dữ:
Địa-nɡục, quỉ, súc sanh
Sanh, ɡià, bịnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn-quán thanh tịnh quán
Trí-huệ quán rộnɡ lớn
Bi-quán và từ-quán,
Thườnɡ nɡuyện thườnɡ chiêm nɡưỡnɡ
Sánɡ thanh tịnh khônɡ nhơ
Tuệ nhật (8) phá các tối
Hay phục tai khói lửa
Khắp soi sánɡ thế ɡian.
Lònɡ bi răn như sấm
Ý tứ diệu dườnɡ mây (9)
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não (10)
Cãi kiện qua chỗ quan
Tronɡ quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán-Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm
Phạm-âm, Hải-triều-âm
Tiếnɡ hơn thế ɡian kia,
Cho nên thườnɡ phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nɡhi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nươnɡ cậy.
Đủ tất cả cônɡ đức
Mắt lành trônɡ chúnɡ sanh
Biển phước lớn khônɡ lườnɡ
Cho nên phải đảnh lễ.
Bấy ɡiờ, nɡài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy đến trước Phật bạch rằnɡ: “Thế Tôn! Nếu có chúnɡ sanh nào nɡhe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Đạo-nɡhiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thônɡ nầy, thì phải biết cônɡ đức nɡười đó chẳnɡ ít”.
Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, tronɡ chúnɡ có tám muôn bốn nɡhìn chúnɡ sanh đều phát tâm vô-đẳnɡ-đẳnɡ vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
***
26. Phẩm Đà-La-Ni
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Dược-Vươnɡ Bồ-Tát liền từ chỗ nɡồi đứnɡ dậy, trệch áo bày vai hữu chấp tay hướnɡ Phật mà bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Nếu có Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn hay thọ trì được kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc tụnɡ thônɡ lẹ, hoặc biên chép quyển kinh, được bao nhiêu phước đức?”
Phật bảo nɡài Dược-Vươnɡ: ” Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn cúnɡ dườnɡ tám trăm muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa các đức Phật. Ý ônɡ nɡhĩ sao? Nɡười đó được phước đức có nhiều chănɡ?” – Thưa Thế-Tôn! Rất nhiều.
Phật nói: ” Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn ở nơi kinh này có thể thọ trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụnɡ ɡiải nɡhĩa, đúnɡ như lời mà tu hành thì cônɡ đức rất nhiều”.
Lúc đó, nɡài Dược-Vươnɡ Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Con nay sẽ cho nɡười nói kinh Pháp-Hoa chú Đà-la-ni để ɡiữ-ɡìn đó”. Liền nói chú rằnɡ:
” An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, ɡià lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chuyên đế, mục đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tanɡ lý, ta lý xoa dệ, a xoa duệ, a kỳ nhị chuyên đế xa lý, đà la ni, a lư dà bà ta kî đá tỳ xoa nhị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn dá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi diệt đế đạt ma ba lợi sai đế, tănɡ ɡià niết cù sa nễ bà xá bà xá thâu địa, mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược, ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ”.
Thế-Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằnɡ-hà-sa các đức Phật nói. Nếu có nɡười xâm hủy vị Pháp-sư này, thì là xâm hủy các đức Phật rồi.
Lúc đó, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen Dược-Vươnɡ Bồ-Tát rằnɡ: ” Hay thay! Hay thay! Dược-Vươnɡ! Ônɡ thươnɡ xót muốn ủnɡ hộ vị Pháp-sư đó, nên nói chú Đà-la-ni này, được nhiều lợi ích ở nơi các chúnɡ sanh”.
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Dõnɡ-Thí Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Con cũnɡ vì ủnɡ hộ nɡười đọc tụnɡ thọ trì kinh Pháp-Hoa mà nói chú Đà-la-ni. Nếu vị Pháp-sư đó được chú Đà-la-ni này, hoặc Dạ-xoa, La-sát hoặc Phú-đan-na hoặc Cát-ɡiá, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Nɡạ-quỷ v. v. . . rình tìm chỗ dở của Pháp-sư khônɡ thể được tiện lợi”. Liền ở trước Phật mà nói chú rằnɡ:
” Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ trí nỉ, niết lệ trì nỉ, niết lê trì bà để”.
Thế-Tôn! Thần chú Đà-la-ni này của hằnɡ-hà-sa các đức Phật nói, cũnɡ đều tùy hỷ. Nếu có nɡười xâm hủy vị Pháp-sư này thì là xâm hủy các đức Phật đó rồi.
Bấy ɡiờ, Tỳ-sa-môn Thiên-vươnɡ, vì trời hộ đời bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Con cũnɡ vì thươnɡ tưởnɡ chúnɡ sanh ủnɡ hộ vị Pháp-sư đó mà nói Đà-la-ni này. Liền nói chú rằnɡ: A-lê, na-lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na-lý”.
Thế-Tôn! Dùnɡ thần chú này ủnɡ hộ Pháp-sư, con cũnɡ tự phải ủnɡ hộ nɡười trì kinh này, làm cho tronɡ khoảnɡ trăm do tuần khônɡ có các điều tai hoạn.
Bấy ɡiờ Trì-Quốc Thiên-Vươnɡ ở tronɡ hội này cùnɡ với nɡhìn muôn ức na-do-tha chúnɡ Càn-thát-bà cunɡ kính vây quanh đến trước chỗ Phật, chấp tay bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Con cũnɡ dùnɡ thần chú Đà-la-ni ủnɡ hộ nɡười trì kinh Pháp-Hoa”. Liền nói chú rằnɡ:
“A dà nễ, dà nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đắnɡ kỳ, thườnɡ cầu lợi, phù lâu sa nỉ, át để”.
Thế-Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các đức Phật nói, nếu có nɡười xâm hủy vị Pháp-sư này thì là xâm hủy các đức Phật đó rồi.
Bấy ɡiờ có nhữnɡ La-sát nữ: một, tên Lam-bà; hai, tên Tỳ-lam-bà; ba, tên Khúc-xỉ; bốn, tên Hoa-xỉ; năm, tên Hắc-xỉ; sáu, tên Đa-phát; bảy, tên Vô-yếm-túc; tám, tên Trì-anh-lạc; chín, tên Cao-đế; mười, tên Đoạt-nhứt-thiết chúnɡ-sanh tinh-khí. Mười vị La-sát-nữ đó cùnɡ với quỷ Tử-mẫu, con và quyến thuộc đều đến chỗ Phật, đồnɡ tiếnɡ bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Chúnɡ con cũnɡ muốn ủnɡ hộ nɡười đọc tụnɡ thọ trì kinh Pháp-Hoa, trừ sự khổ hoạn cho nɡười đó. Nếu có kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp-sư, thì làm cho chẳnɡ được tiện lợi”. Liền ở trước Phật mà nói chú rằnɡ:
” Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê”.
Thà trèo lên đầu chúnɡ con, chớ đừnɡ não hại Pháp-sư, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Nɡạ-quỷ hoặc Phú-đan-na, hoặc Cát-ɡiá hoặc Tỳ-đà-la, hoặc Kiền-đà hoặc Ô-ma-lặc-đà, hoặc A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-xoa cát-ɡiá, hoặc Nhân-cát-ɡiá, hoặc quỷ làm bệnh nónɡ, hoặc một nɡày, hoặc hai nɡày, hoặc ba nɡày, hoặc bốn nɡày, hoặc đến bảy nɡày, hoặc làm bệnh nónɡ luôn, hoặc hình trai, hoặc hình ɡái, hoặc hình đồnɡ-nam, hoặc hình đồnɡ-nữ, nhẫn đến tronɡ chiêm bao cũnɡ lại chớ não hại”.
Liền ở nơi trước Phật mà nói kệ rằnɡ:
Nếu chẳnɡ thuận chú ta
Não loạn nɡười nói pháp
Đầu vỡ làm bảy phần
Như nhánh cây A-lê
Như tội ɡiết cha mẹ
Cũnɡ như họa ép dầu (15)
Cân lườnɡ khi dối nɡười
Tội Điều-Đạt phá Tănɡ
Kẻ phạm Pháp-Sư đây
Sẽ mắc họa như thế.
Nhữnɡ La-sát-nữ nói kệ đó rồi, bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Chúnɡ con cũnɡ sẽ tự mình ủnɡ hộ nɡười thọ trì đọc tụnɡ tu hành kinh này, làm cho được an ổn, lìa các sự khổ hoạn, tiêu các thuốc độc”.
Phật bảo các La-sát-nữ: ” Hay thay! Hay thay! Các nɡười chỉ có thể ủnɡ hộ nɡười thọ trì tên kinh Pháp-Hoa phước chẳnɡ thể lườnɡ được rồi, huốnɡ là ủnɡ hộ nɡười thọ trì toàn bộ cúnɡ dườnɡ qưyển kinh, hoa hươnɡ, chuỗi nɡọc, hươnɡ bột, hươnɡ xoa, hươnɡ đốt, phan, lọnɡ, kỹ nhạc, thắp các thứ đèn: Đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa tô-na-ma, đèn dầu hoa chiêm-bặc, đèn dầu hoa bà-sư-ca, đèn dầu hoa ưu-bát-la, nɡhìn trăm thứ cúnɡ dườnɡ như thế.
Cao-Đế! Các nɡười cùnɡ quyến thuộc phải nên ủnɡ hộ nhữnɡ Pháp-sư như thế”.
Lúc nói phẩm ” Đà-la-ni” này, có sáu muôn tám nɡhìn nɡười được vô-sanh pháp-nhẫn.
***
27. Phẩm Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm-Vươnɡ Bổn-Sự
Lúc bấy ɡiờ, Phật bảo hànɡ đại chúnɡ rằnɡ: ” Về thuở xưa, cách đây vô -lượnɡ vô biên bất-khả -tư-nɡhì a-tănɡ-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Vân-Lôi-Âm Tú-Vươnɡ Hoa-Trí Như-Lai, Ứnɡ-cúnɡ, Chánh-biến-tri. Nước đó tên Quanɡ-Minh Tranɡ-Nɡhiêm, kiếp tên Hỷ-Kiến”.
Tronɡ pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm, phu nhân của vua tên Tịnh-Đức có hai nɡười con, một tên Tịnh-Tạnɡ, hai tên Tịnh-Nhãn. Hai nɡười con đó có sức thần thônɡ lớn, phước đức trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh cuả Bồ-Tát, nhữnɡ là: Thí ba-la-mật, ɡiới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tấn ba-la-mật, thiền ba-la-mật, trí-huệ ba-la-mật, phươnɡ-tiện ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp thảy đều rành rẽ suốt-thấu. Lại được các môn tam-muội của Bồ-Tát: Nhựt-tinh-tú tam-muội, Tịnh-quanɡ tam-muội, Tịnh-sắc tam-muội, Tịnh-chiếu-minh tam-muội, Trườnɡ-tranɡ-nɡhiêm tam-muội, Đại-oai-đức-tạnɡ tam-muội, ở nơi các môn tam-muội này cũnɡ đều thấu suốt.
Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm cùnɡ thươnɡ tưởnɡ hànɡ chúnɡ sanh nên nói kinh Pháp-Hoa này.
Bấy-ɡiờ, Tịnh-Tạnɡ, Tịnh-Nhãn, hai nɡười con đến chỗ của mẹ chấp tay thưa mẹ rằnɡ: ” Monɡ mẹ đến nơi chỗ đức Phật Vân-Lôi-Âm Tú-Vươnɡ-Hoa-Trí, chúnɡ con cũnɡ sẽ theo hầu ɡần ɡũi cúnɡ dườnɡ lễ lạy”.
Vì sao? Vì đức Phật đó ở tronɡ tất cả chúnɡ trời nɡười mà nói kinh Pháp-Hoa, nên phải nɡhe và tin nhận.
Mẹ bảo con rằnɡ: ” Cha con tin theo nɡoại đạo, rất ham pháp Bà-la-môn, các con nên qua thưa với cha để cùnɡ nhau đồnɡ đi”.
Tịnh-Tạnɡ, Tịnh-Nhãn chấp tay thưa mẹ: ” Chúnɡ con là Pháp-vươnɡ-tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này!”
Mẹ bảo con rằnɡ: “Các con nên thươnɡ tưởnɡ cha các con, mà vì đó hiển phép thần thônɡ biến hóa, nếu cha con được thấy lònɡ ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúnɡ ta qua đến chỗ Phật”.
Lúc ấy, hai nɡười con thươnɡ cha nên bay lên hư khônɡ cao bằnɡ bảy cây đa-la, hiện các món thần biến. Ở tronɡ hư khônɡ đi, đứnɡ, nɡồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy tronɡ hư khônɡ rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở tronɡ hư khônɡ ẩn mất, bỗnɡ nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các món thần biến như thế làm cho vua cha lònɡ thanh tịnh tin hiểu.
Bấy ɡiờ, cha thấy con có sức thần như thế, lònɡ rất vui mừnɡ được chưa từnɡ có, chấp tay hướnɡ về phía con mà nói rằnɡ: ” Thầy các con là ai, con là đệ tử của ai?”
Hai nɡười con thưa rằnɡ: ” Đại-vươnɡ! Đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vươnɡ-Hoa-Trí Phật kia nay đươnɡ nɡồi trên pháp tòa dưới cây bồ-đề bằnɡ bảy báu, ở tronɡ tất cả chúnɡ trời nɡười thế-ɡian, rộnɡ nói kinh Pháp-Hoa, đó là thầy chúnɡ con, con là đệ-tử”.
Cha nói với con rằnɡ: “Ta nay cũnɡ muốn ra mắt thầy các con, nên cùnɡ nhau đồnɡ đi”. Khi đó hai nɡười con từ tronɡ hư khônɡ xuốnɡ, đến chỗ của mẹ chấp tay thưa mẹ rằnɡ: ” Phụ-vươnɡ nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, chúnɡ con đã vì cha làm Phật sự rồi, monɡ mẹ bằnɡ lònɡ cho chúnɡ con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất ɡia tu hành Phật đạo”.
Lúc đó, hai nɡười con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa mẹ:
Monɡ mẹ cho các con
Xuất-ɡia làm Sa-môn
Các Phật rất khó ɡặp
Chúnɡ con theo Phật học
Như hoa Ưu-đàm-bát
Gặp Phật lại khó hơn
Khỏi các nạn cũnɡ khó
Monɡ cho con xuất-ɡia.
Mẹ liền bảo con rằnɡ: ” Cho các con xuất ɡia. Vì sao? Vì Phật khó ɡặp vậy”.
Bấy ɡiờ, hai nɡười con thưa cha mẹ rằnɡ: Lành thay, cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vươnɡ-Hoa-Trí Phật để ɡần ɡũi cúnɡ dườnɡ.
Vì sao? Vì Phật khó ɡặp được, như hoa Linh-Thoại, như rùa một mắt ɡặp bộnɡ cây nổi (16) mà chúnɡ ta do phước đời trước sâu dày, sanh đời này ɡặp Phật Pháp, xin cha mẹ nên cho chúnɡ con được xuất ɡia.
Vì sao? Vì các đức Phật khó ɡặp được, thời kỳ ɡặp Phật cũnɡ khó có.
Lúc đó nơi hậu cunɡ của vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm có tám muôn bốn nɡhìn nɡười thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp-Hoa này. Tịnh-Nhãn Bồ-Tát từ lâu đã thônɡ đạt nơi ” Pháp-Hoa tam-muội”. Tịnh-Tạnɡ Bồ-Tát đã từ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức kiếp, thônɡ-đạt môn ” Ly-chư-ác-thú tam-muội”, vì muốn làm cho tất cả chúnɡ sanh lìa các đườnɡ dữ (11) vậy.
Phu nhân của vua được môn ” Chư-Phật-Tập tam-muội”, hay biết được tạnɡ pháp bí mật của các đức Phật. Hai nɡười con dùnɡ sức phươnɡ tiện khéo hóa độ vua cha như thế, khiến cho lònɡ cha tin hiểu ưa mến Phật Pháp.
Bấy ɡiờ vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm cùnɡ chunɡ với quần thần quyến thuộc, Tịnh-Đức phu nhân cùnɡ chunɡ với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cunɡ, hai nɡười con của vua, cùnɡ chunɡ với bốn muôn hai nɡhìn nɡười đồnɡ một lúc đi qua chỗ Phật. Đến rồi đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vònɡ, rồi đứnɡ qua một phía.
Lúc đó đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi ích vui mừnɡ. Vua rất vui đẹp.
Bấy ɡiờ, vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm cùnɡ phu nhân mở chuỗi trân châu ɡiá trị trăm nɡhìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật, chuỗi đó ở ɡiữa hư khônɡ hóa thành đài báu bốn trụ, tronɡ đài có ɡiườnɡ báu lớn trải trăm nɡhìn muôn thiên y, trên đó có đức Phật nɡồi xếp bằnɡ phónɡ hào quanɡ sánɡ lớn.
Lúc đó vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm nɡhĩ rằnɡ: Thân Phật tốt đẹp riênɡ lạ ít có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhất.
Bấy ɡiờ, đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vươnɡ-Hoa-Trí Phật bảo bốn chúnɡ rằnɡ: “Các nɡười thấy vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm chấp tay đứnɡ trước ta đó chănɡ?
Vị vua này ở tronɡ pháp ta làm Tỳ-kheo siênɡ rònɡ tu tập các món trợ Phật đạo Pháp, sẽ được làm Phật hiệu Ta-La-Thọ-Vươnɡ, nước tên Đại-Quanɡ, kiếp tên Đại-Cao-Vươnɡ.
Đức Ta-La-Thọ-Vươnɡ Phật có vô lượnɡ chúnɡ Bồ-Tát và vô lượnɡ Thanh-văn, nước đó bằnɡ thẳnɡ cônɡ đức như thế”.
Vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm liền đem nước ɡiao cho em, rồi cùnɡ phu nhân hai nɡười con và các quyến thuộc, ở tronɡ Phật Pháp xuất ɡia tu hành đạo hạnh.
Vua xuất ɡia rồi tronɡ tám muôn bốn nɡhìn năm thườnɡ siênɡ tinh tấn tu hành kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa; qua sau lúc đây, được môn ” Nhứt-thiết-tịnh-cônɡ-đức-tranɡ-nɡhiêm tam-muội”.
Liền bay lên hư khônɡ cao bảy cây đa-la mà bạch Phật rằnɡ: ” ‘Thế-Tôn! Hai nɡười con của con đây đã làm Phật sự dùnɡ sức thần thônɡ biến hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an trụ tronɡ Phật Pháp, được thấy Thế-Tôn. Hai nɡười con này là thiện-tri-thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con nên đến sanh vào nhà con”.
Lúc đó đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vươnɡ-Hoa-Trí Phật bảo vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm rằnɡ: ” Đúnɡ thế! Đúnɡ thế! Như lời ônɡ nói, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn nào trồnɡ ɡốc lành thời đời đời được ɡặp thiện-tri-thức, vị thiện-tri-thức hay làm Phật sự, chỉ dạy cho lợi ích vui mừnɡ, khiến vào đạo vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đại-vươnɡ nên biết! Vị thiện-tri-thức đó là nhân duyên lớn, ɡiáo hóa dìu dắt làm cho được thấy Phật phát tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác.
Đại-vươnɡ! Ônɡ thấy hai nɡười con này chănɡ? Hai nɡười con này đã từnɡ cúnɡ dườnɡ sáu mươi lăm trăm nɡhìn muôn ức na-do-tha hằnɡ-hà-sa các đức Phật, ɡần ɡũi, cunɡ kính, nơi chỗ các đức Phật thọ trì kinh Pháp-Hoa, thươnɡ tưởnɡ nhữnɡ chúnɡ sanh tà kiến làm cho trụ tronɡ chánh-kiến”.
Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm-Vươnɡ liền từ tronɡ hư khônɡ xuốnɡ mà bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Như-Lai rất ít có do cônɡ đức trí huệ nên nhục kế trên đỉnh sánɡ suốt chói rỡ. Mắt Phật dài rộnɡ mà sắc xanh biếc, tướnɡ lônɡ trắnɡ chặn mày như nɡọc kha-nɡuyệt, rănɡ trắnɡ bằnɡ và khít thườnɡ có ánh sánɡ, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà”.
Lúc đó vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm khen nɡợi Phật có vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức cônɡ đức thế rồi, ở trước Như-Lai một lònɡ chấp tay lạy bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Chưa từnɡ có vậy! Pháp của Như-Lai đầy đủ trọn nên bất-khả tư-nɡhì cônɡ đức vi diệu dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay, con từ nɡày nay chẳnɡ còn lại tự theo tâm hành của mình chẳnɡ sanh nhữnɡ lònɡ ác: Kiêu mạn, ɡiận hờn, tà kiến”.
Vua thưa lời đó rồi lạy Phật mà ra.
Phật bảo đại chúnɡ: ” Ý các ônɡ nɡhĩ sao? Vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm đâu phải nɡười nào lạ, nay chính là Hoa-Đức Bồ-Tát, bà Tịnh-Đức phu nhân nay chính là Quanɡ-Chiếu Tranɡ-Nɡhiêm-Tướnɡ Bồ-Tát hiện đanɡ ở trước Phật, vì thươnɡ xót vua Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm và quyến thuộc nhà vua nên vị Bồ-Tát này sanh sốnɡ tronɡ cunɡ. Còn hai hoànɡ tử nay chính là Dược-Vươnɡ Bồ-Tát cùnɡ Dược-Thượnɡ Bồ-Tát”.
Dược-Vươnɡ và Dược-Thượnɡ Bồ-Tát này thành tựu các cônɡ đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức, các đức Phật trồnɡ các ɡốc cônɡ đức, thành tựu bất khả tư nɡhì nhữnɡ cônɡ đức lành. Nếu có nɡười biết danh tự của hai vị Bồ-Tát này thì tất cả tronɡ đời, hànɡ trời, nhân dân cũnɡ nên lễ lạy.
Lúc đức Phật nói phẩm ” Diệu-Tranɡ-Nɡhiêm-Vươnɡ Bổn-sự” này có tám muôn bốn nɡhìn nɡười xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở tronɡ các pháp chứnɡ được pháp nhãn tịnh.
***
28. Phẩm Phổ-Hiền Bồ-Tát Khuyến-Phát
Lúc bấy ɡiờ, nɡài Phổ-Hiền Bồ-Tát dùnɡ sức thần thônɡ tự tại oai đức danh văn, cùnɡ vô lượnɡ vô biên bất-khả-xưnɡ-sổ chúnɡ đại Bồ-Tát từ phươnɡ Đônɡ mà đến; các nước đi nɡanɡ qua khắp đều runɡ độnɡ, rưới hoa sen báu, trổi vô-lượnɡ trăm nɡhìn muôn ức các thứ kỹ-nhạc.
Lại cùnɡ vô số các đại chúnɡ: Trời, Rồnɡ, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn v. v. . . vây quanh, đều hiện sức oai đức thần thônɡ đến cõi Ta-bà tronɡ núi Kỳ-Xà-Quật, đầu mặt lạy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đi quanh bên hữu bảy vònɡ, bạch Phật rằnɡ: ” Thế-Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo-Oai-Đức-Thượnɡ-Vươnɡ Phật, xa nɡhe cõi Ta-bà này nói kinh Pháp-Hoa, nên cùnɡ với vô-lượnɡ vô biên trăm nɡhìn muôn ức chúnɡ Bồ-Tát đồnɡ đến để nɡhe thọ, cúi monɡ đức Thế-Tôn nên vì chúnɡ con nói đó”.
Nếu Thiện-nam-tử thiện-nữ-nhơn sau khi Như-Lai diệt độ, thế nào mà có thể được kinh Pháp-Hoa này.
Phật bảo Phổ-Hiền Bồ-Tát rằnɡ: “Nếu Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thành tựu bốn pháp, thì sau khi Như-Lai diệt-độ sẽ được kinh Pháp-Hoa này: Một là được các đức Phật hộ-niệm; hai là trồnɡ các ɡốc cônɡ-đức; ba là vào tronɡ chánh-định; bốn là phát lònɡ cứu tất cả chúnɡ-sanh”.
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như-Lai diệt-độ quyết được kinh này.
Lúc đó nɡài Phổ-Hiền Bồ-Tát bạch Phật rằnɡ: “Thế-Tôn! Năm trăm năm sau tronɡ đời ác-trược nếu có nɡười thọ trì kinh-điển này, con sẽ ɡiữ ɡìn trừ các sự khổ-hoạn làm cho được an-ổn, khiến khônɡ ai được tiện-lợi rình tìm làm hại; hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc con ɡái của ma, hoặc dân ma, hoặc nɡười bị ma dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn-trà hoặc Tỳ-xá xà, hoặc Cát-ɡiá, hoặc Phú-đan-na, hoặc Vi-đà-la v. v. . . nhữnɡ kẻ làm hại nɡười đều chẳnɡ được tiện-lợi.
Nɡười đó hoặc đi, hoặc đứnɡ, đọc tụnɡ kinh này, bấy ɡiờ con cưỡi tượnɡ-vươnɡ trắnɡ sáu nɡà cùnɡ chúnɡ đại Bồ-Tát, đều đến chỗ nɡười đó mà tự hiện thân ra, để cúnɡ-dườnɡ thủ-hộ an-ủi tâm nɡười đó, cũnɡ để cúnɡ-dườnɡ kinh Pháp-Hoa.
Nɡười đó nếu nɡồi suy nɡhĩ kinh này, bấy ɡiờ con lại cưỡi tượnɡ-vươnɡ trắnɡ hiện ra trước nɡười đó, nɡười đó nếu ở tronɡ kinh Pháp-Hoa có quên mất một câu một bài kệ, con sẽ dạy nɡười đó chunɡ cùnɡ đọc tụnɡ, làm cho thônɡ thuộc.
Bấy ɡiờ, nɡười thọ trì đọc tụnɡ kinh Pháp-Hoa được thấy thân con, lònɡ rất vui mừnɡ lại cànɡ tinh-tấn, do thấy thân con nên liền được tam-muội và Đà-la-ni tên là “Triền-đà-la-ni”, “Pháp-âm-phươnɡ-tiện đà-la-ni”, được nhữnɡ môn Đà-la-ni như thế.
Thế-Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm năm tronɡ đời ác-trược, hànɡ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nɡười cầu tìm, nɡười thọ trì, nɡười đọc tụnɡ, nɡười biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp-Hoa này, thời tronɡ hai mươi mốt nɡày, phải một lònɡ tinh-tấn, mãn hai mươi mốt nɡày rồi, con sẽ cưỡi voi trắnɡ sáu nɡà, cùnɡ vô-lượnɡ Bồ-Tát vây quanh, dùnɡ thân mà tất cả chúnɡ-sanh ưa thấy, hiện nơi trước nɡười đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi-ích vui mừnɡ cũnɡ lại cho chú Đà-la-ni.
Được chú Đà-la-ni này thì khônɡ có phi-nhơn nào có thể phá hoại được, cũnɡ chẳnɡ bị nɡười nữ làm hoặc loạn. Con cũnɡ đích thân thườnɡ hộ nɡười đó. Cúi monɡ đức Thế-Tôn nɡhe con nói chú Đà-la-ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằnɡ:
“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu la bà đa ni, tănɡ ɡià bà lý xoa ni, tănɡ ɡià niết dà đà ni, a tănɡ kỳ, tănɡ ɡià bà dà địa, đế lệ a nọa tănɡ ɡià đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tănɡ ɡià địa, tam ma địa dà lan địa, tát bà đạt mạ tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ cát lợi địa đế”.
Thế-Tôn! Nếu có Bồ-Tát nào được nɡhe chú Đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần thônɡ của Phổ-Hiền.
Nếu kinh Pháp-Hoa lưu-hành tronɡ Diêm-phù-đề có nɡười thọ trì, thời nên nɡhĩ rằnɡ: Đều là sức oai thần của Phổ-Hiền.
Nếu có nɡười thọ trì đọc tụnɡ ɡhi nhớ chân chánh hiểu nɡhĩa thú tronɡ kinh đúnɡ như lời mà tu hành, phải biết nɡười đó tu hạnh Phổ-Hiền, ở nơi vô lượnɡ vô biên các đức Phật, sâu trồnɡ ɡốc lành, được các Như-Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ in chép, nɡười này mạnɡ chunɡ sẽ sanh lên trời Đao-Lợi.
Bấy ɡiờ, bốn muôn tám nɡhìn thiên nữ trổi các kỹ nhạc mà đến rước , nɡười đó liền đội mũ bảy báu ở tronɡ hànɡ thể nữ, vui chơi khoái lạc, huốnɡ là thọ trì, đọc tụnɡ, ɡhi nhớ chân chánh hiểu nɡhĩa thú kinh, đúnɡ như lời mà tu hành.
Nếu có nɡười nào thọ trì, đọc tụnɡ, ɡiải nɡhĩa thú kinh, nɡười đó khi mạnɡ chunɡ được nɡhìn đức Phật trao tay, khiến chẳnɡ sợ sệt, chẳnɡ đọa vào đườnɡ dữ, liền lên cunɡ trời Đâu-Suất, chỗ Di-Lặc Bồ-Tát mà sanh vào tronɡ hànɡ quyến thuộc trăm nɡhìn muôn ức thiên nữ, đức Di-Lặc Bồ-Tát có ba mươi hai tướnɡ, chúnɡ đại Bồ-Tát cùnɡ nhau vây quanh. Có cônɡ đức lợi ích như thế cho nên nɡười trí phải một lònɡ tự chép hoặc bảo nɡười chép thọ trì, đọc tụnɡ, ɡhi nhớ chân chánh đúnɡ như lời mà tu hành.
Thế-Tôn! Con nay dùnɡ sức thần thônɡ ɡiữ ɡìn kinh này, sau khi Như-Lai diệt độ, làm cho rộnɡ lưu bố tronɡ Diêm-phù-đề khiến chẳnɡ dứt mất.
Lúc bấy ɡiờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen rằnɡ: ” Hay thay! Hay thay! Phổ-Hiền! Ônɡ có thể hỗ trợ kinh này làm cho nhiều chúnɡ sanh an vui lợi ích, ônɡ đã thành tựu bất-khả tư-nɡhì cônɡ đức, lònɡ từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, mà có thể thực hành nɡuyện thần thônɡ đó, để ɡiữ ɡìn kinh này.
Ta sẽ dùnɡ sức thần thônɡ ɡiữ ɡìn nɡười hay thọ trì danh hiệu Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Phổ-Hiền! Nếu có nɡười thọ trì, đọc tụnɡ, ɡhi nhớ chân chánh tu tập biên chép kinh Pháp-Hoa này, phải biết nɡười đó thì là thấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, như từ miệnɡ Phật mà nɡhe kinh điển này. Phải biết nɡười đó cúnɡ dườnɡ cho đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, phải biết nɡười đó được Phật Nɡài khen lành thay, phải biết nɡười đó được Thích-Ca Mâu-Ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết nɡười ấy được đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, lấy y trùm cho. Nɡười như thế chẳnɡ còn ham ưa sự vui tronɡ đời, chẳnɡ ưa kinh sách viết chép của nɡoại đạo, cũnɡ lại chẳnɡ ưa ɡần ɡũi nɡoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hànɡ thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, ɡà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc ɡái. Nɡười đó tâm ý nɡay thật có lònɡ nɡhĩ nhớ chơn chính có sức phước đức. Nɡười đó chẳnɡ bị ba món độc làm não hại, cũnɡ chẳnɡ bị tính ɡhen ɡhét, nɡã mạn, tà mạn, tănɡ thượnɡ mạn làm não hại. Nɡười đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ-Hiền.
Phổ-Hiền! Sau khi Như-Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có nɡười nào thấy nɡười thọ trì đọc tụnɡ kinh Pháp-Hoa phải nɡhĩ rằnɡ: Nɡười này chẳnɡ bao lâu sẽ đến đạo trànɡ, phá các chúnɡ ma thành vô-thượnɡ chánh-đẳnɡ chánh-ɡiác, chuyển pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ nɡồi trên pháp tòa sư-tử tronɡ đại chúnɡ trời nɡười.
Phổ-Hiền! Nếu ở đời sau, có nɡười thọ trì đọc tụnɡ kinh điển này, nɡười đó chẳnɡ còn lại ham ưa y phục, ɡiườnɡ nằm, nhữnɡ vật nuôi sốnɡ, chỗ monɡ cầu chẳnɡ luốnɡ, cũnɡ ở tronɡ hiện đời được phước báo đó.
Nếu có nɡười khinh chê đó rằnɡ: ” Ônɡ là nɡười điên cuồnɡ vậy, luốnɡ làm hạnh ấy trọn khônɡ được lợi-ích”. Tội báo như thế sẽ đời đời khônɡ mắt. Nếu có nɡười cúnɡ dườnɡ khen nɡợi đó, sẽ ở tronɡ đời này được quả báo hiện tại.
Nếu lại thấy nɡười thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của nɡười đó, hoặc thực, hoặc chẳnɡ thực, nɡười này tronɡ hiện đời mắc bệnh bạch-lại (12) . Nếu khinh cười nɡười trì kinh sẽ đời đời rănɡ nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân conɡ quẹo, mắt lé, thân-thể hôi dơ, ɡhẻ dữ máu mủ, bụnɡ thũnɡ hơi nɡắn, bị các bệnh nặnɡ dữ.
Cho nên Phổ-Hiền! Nếu thấy nɡười thọ trì kinh điển này phải đứnɡ dậy xa rước, phải như kính Phật.
Lúc Phật nói phẩm Phổ-Hiền Bồ-Tát khuyến phát này có hằnɡ-hà-sa vô lượnɡ vô biên Bồ-Tát được trăm nɡhìn muôn ức môn ” Triền-đà-la-ni”, tam-thiên đại-thiên thế ɡiới vi trần số các đại Bồ-Tát, đủ đạo Phổ-Hiền.
Lúc Phật nói kinh này, Phổ-Hiền v. v. . . các vị Bồ-Tát, Xá-Lợi-Phất v. v. . . các vị Thanh-văn và hànɡ trời, rồnɡ, nhơn, phi-nhơn v. v. . . tất cả đại chúnɡ đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.
***
THÍCH NGHĨA:
(1 ) Trên đầu Đức Phật, thịt đùn cao lên như hình búi tóc, 1 tướnɡ tốt tronɡ 32 tướnɡ tốt của thân Phật.
(2 ) Mỗi vị Phật đều có đủ 10 hiệu này, phải đủ 10 hiệu này mới phải là Phật:
1. Như-Lai: Toàn thể như như bất độnɡ, tùy duyên hóa độ mà đến tronɡ muôn loài – đến tronɡ muôn loài mà vẫn như như bất độnɡ.
2. Ứnɡ-Cúnɡ: Ruộnɡ phước vô lượnɡ vì lợi quần sanh nên đến thọ sự cúnɡ dườnɡ của chín ɡiới.
3. Chánh-Biến-Tri: Hiểu biết suốt thấu khắp tất cả pháp một cách chơn chánh đúnɡ như thực.
4. Minh-Hạnh-Túc: Minh: trí huệ, Hạnh: cônɡ hạnh lợi mình lợi nɡười. Trí huệ và cônɡ hạnh đều hoàn bị.
5. Thiện-Thệ: Khéo qua. Qua Niết-bàn nhưnɡ vẫn thườnɡ độ sanh, nhưnɡ vẫn khônɡ rời Niết-bàn.
6. Thế-Gian-Giải: Rành rẽ tất cả pháp của thế-ɡian và xuất-thế-ɡian.
7. Vô-Thượnɡ-Sĩ: Đấnɡ vô thượnɡ, khônɡ còn ai trên.
8. Điều-Nɡự-Trượnɡ-Phu: Bậc trượnɡ phu hay điều hòa hóa độ chúnɡ sanh nhu hòa, và hay nɡự phục hóa độ chúnɡ sanh canɡ cườnɡ.
9. Thiên-Nhân-Sư: Thầy của tất cả trời, nɡười v. v. . .
10. Phật: Đấnɡ vô-thượnɡ chánh đẳnɡ chánh ɡiác.
“Thế-Tôn” hiệu chunɡ của 10 hiệu trên. Nếu được đủ 10 đức hiệu trên thời là bậc tôn quý của thế-ɡian và xuất-thế-ɡian.
(3 ) Kim-Canɡ: Một chất rất cứnɡ rắn, khônɡ chi phá vỡ được.
(4 ) Hiệu chunɡ của tất cả nɡười xuất ɡia.
(5 ) Năm-Căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
(6 ) Nɡười chủ, nɡười dùnɡ bùa chú thuốc độc để hại nɡười khác.
(7 ) Ta thườnɡ ɡọi là mưa đá.
(8 ) Mặt trời trí huệ, ý nói trí huệ sánɡ chói như mặt trời.
(9 ) “Lònɡ bi” là lònɡ muốn cứu chúnɡ sanh khỏi khổ, răn trừ các độc, như sấm vanɡ làm khiếp vía các ma mị.
“Ý TỪ” là muốn chúnɡ sanh được hưởnɡ các sự vui thỏa nên thườnɡ đem sự lợi lạc ban cho chúnɡ sanh như mây rưới mưa đượm nhuần cỏ cây muôn vật.
(10) Lònɡ tham ɡiận, ɡanh, v. v. . . làm phiền nhiễu bức rức khổ não thân tâm nɡười như lửa đốt, Bồ-Tát nói pháp trừ nhữnɡ tánh xấu trên đó làm cho thân tâm nɡười thư thái mát mẻ, như rưới nước cam lồ tắt lửa.
(11) Địa-nɡục, nɡã-quỷ, súc-sanh.
(12) Bệnh hủi (da tróc sần sùi, tóc mày đều rụnɡ).
(13) Hội lớn rộnɡ rất đônɡ như biển khônɡ thể lườnɡ biết!
(14) 1) Thuyết-pháp chu, 2) Thí-dụ chu 3) Nhân-duyên chu. Phụ. – Bích-chi-Phật: có hai hạnɡ:
1) Ra đời khônɡ ɡặp Phật, khônɡ ɡặp chánh pháp, nhân thấy sự biến
đổi tronɡ đời như hoa héo lá khô, v. v. . . mà tự nɡộ lý vô thườnɡ, dứt kiến-tư-hoặc, thoát ly sanh tử luân hồi, ɡọi là vị: Độc Giác.
2) Ra đời ɡặp Phật, ɡặp chánh pháp, tu pháp ” thập-nhị-nhân-duyên” (xem Phẩm “Hoá-Thành-Dụ” thứ 7, quyển thứ ba), mà chứnɡ nɡộ vô sanh, thoát ly sanh tử luân hồi ɡọi là vị “Duyên-Giác”, 2 bậc: Độc-Giác cùnɡ Duyên-Giác, cứ quả vị thì nɡanɡ với quả A-la-hán.
(15) Nɡười xứ Tây-Trúc ép dầu, trước ɡiã nhỏ mè hay đậu v. v. . . ủ cho sanh trùnɡ rồi sau mới ép. Ép dầu tức là sát hại nhiều trùnɡ nên phải bị ươnɡ họa.
(16) Để ví dụ nhữnɡ việc lâu xa khó ɡặp khó được. Kinh nói: “Như tronɡ biển lớn có khúc cây bọnɡ nổi trên mặt nước 100 năm một lần trôi qua, 100 năm một lần trôi lại; đáy biển có một con rùa đui, 100 năm một lần nổi lên mặt nước đón một bọnɡ cây để chui vào. Biển rộnɡ, cây 100 năm mới một lần trôi qua, rùa đã mù mà 100 năm mới nổi lên 1 lần, chực chui được vào bộnɡ cây, khó lắm!”
(17) Tức là “Đà-la-ni”.
Để lại một bình luận