Nơi sẽ sinh về là mối quan tâm của nhiều người đang sống ở cõi sống và cõi chết. Thỉnh thoảng, mỗi người trong chúng ta tự đặt câu hỏi: Ta từ đâu đến? Chết đi về đâu?
Các tôn giáo và triết học đã nỗ lực tìm giải pháp cho hai câu hỏi trên mà thực tế chẳng đơn giản tí nào. Các tôn giáo như Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo v.v… quan niệm rằng con người đến là do Thượng đế ban tặng sự sống, và mượn bào thai của người mẹ để hình thành. Các triết gia Hi Lạp cổ đại quan niệm rằng con người đến từ Đất, Nước, Gió, Lửa. Triết gia chủ nghĩa duy vật hiện đại quan niệm con người đến từ vật chất. Mỗi quan niệm về nguồn gốc có mặt của con người đưa đến những học thuyết lý giải về sự ra đi và nơi chốn sinh về khác nhau. Các nhà duy vật cho rằng sau khi chết con người sẽ trở về với nguyên lý vật chất. Đời sống con người chỉ có một kiếp sống duy nhất ở hiện tại. Sinh ra từ vật chất, phát triển ý thức, sống và làm việc trong cuộc đời; đến lúc già, bệnh và chết diễn ra là dấu chấm cuối cùng, và sau cái chết sẽ không còn gì nữa.
Quan điểm đó được đạo Phật cho là đoạn kiến, nghĩa là cái nhìn bị giới hạn. Trong khi bản chất của thế giới sinh học gồm con người và các loài động vật thì cái chết không phải là dấu chấm cuối cùng. Cái chết giống như một con đường thẳng được nối kết bằng nhiều dấu chấm và nhiều điểm khác nhau. Chết ở nơi này để tiếp nối sự sống ở nơi khác. Các nhà tôn giáo học hữu thần cho rằng con người được tạo ra bởi Thượng Đế và khi chết chỉ có hai cảnh giới tái sinh, hoặc lên Thiên đường để hưởng nhân đức chúa đời đời kiếp kiếp nếu ai tin Chúa. Trái lại, kẻ nào dám đặt vấn đề, thắc mắc về nội dung của kinh Thánh, không tin theo thì được xem là con chiên ngoài đàng, sau khi chết bị đày xuống hoả ngục và thiêu rụi đời đời kiếp kiếp. Quan niệm này Phật giáo gọi là đoạn kiến, bởi vì cấu trúc nhân quả trong đời sống về niềm tin tái sanh đoản hậu như thế không phản ánh được bản chất vận hành trong từng hành động, lời nói, việc làm và tư duy của con người.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, đức Phật đề cập: chư pháp“bất sinh bất diệt”. Bốn chữ này có ý nghĩa rất sâu sắc, có nghĩa là tất cả mọi sự vật, hiện tượng không tự sinh ra và không tự mất đi vĩnh viễn. Định lý này được khoa học ngày nay xác định như một nguyên lý, hay định luật bảo toàn năng lượng của vật chất. Một cơn mưa nặng hạt từ trên vầng mây lửng trong không gian, sau đó rơi xuống mặt đất. Nước thấm xuống lòng đất sẽ bị mất đi, nhưng do tác động của khí hậu, nước lại bốc hơi và trở thành mây, và cứ thế nó vận hành khi thì là mây, khi là hơi nước, khi là mưa…Nguồn năng lượng được thay hình đổi dạng, không bị mất đi một cách vĩnh viễn, đó là quy luật bảo toàn năng lượng. Sự sống con người không phải do Thượng đế sinh ra. Vì theo đạo Phật, Thượng đế không có thật, chỉ do niềm tin mê tín của con người nắn tạo ra mà thôi. Một triết gia Đức từng phát biểu:“Thượng đế đã chết”, nghĩa là khi khoa học, kiến thức, trình độ, đạo đức của con người phát triển thì lúc đó niềm tin vào Thượng đế sẽ không còn.
Hậu quả của cái nhìn đoạn kiến sau khi con người chết là hết dẫn đến một đời sống dễ dàng, buông lung. Bởi sự so sánh giữa người thiện và kẻ ác đều có kết cục giống nhau thì cần chi phải làm lành lánh dữ. Nếu để ý quan sát cảnh lục bình trôi bồng bềnh trên sông nước, có thể thấy đây là sự trôi vô định, không có mục đích. Ngược lại, con thuyền trên sông nước lại có định hướng rõ ràng. Chủ nhân con thuyền biết rõ mình xuất phát từ đâu, và chở hàng hoá cập bến nào. Do có chủ định rõ nên thuyền sẽ không đậu vĩnh viễn trên sông, mà nay chỗ này, mai chỗ khác. Chỉ cần so sánh hai hình ảnh giữa con thuyền và lục bình trên sông cho thấy rõ có hai hình thái của sự đi về.
Câu hỏi “chết đi về đâu” với sự so sánh giữa hai hình ảnh trên cho thấy hai khuynh hướng. Thứ nhất, trong tình huống của chiếc thuyền có người lái thì con người hay các loài động vật khi qua đời sẽ đi theo nghiệp. Các năng lượng nghiệp sẽ chủ động dẫn dắt, đưa đường dẫn lối về cảnh giới với nghiệp tương ứng, để tái sinh làm người với nhân quả tương thích, hoặc ở cảnh giới thấp kém, hoặc ở cảnh giới cao thượng. Tình huống lục bình trôi vô phương hướng tượng trưng cho người chết chưa có sự chuẩn bị, thái độ không chấp nhận cái chết như một sự thật, cứ muốn níu kéo, bám víu mãi. Vì vậy thần hồn vẩn vơ, lang thang vô định và thiếu mục đích, nên phải chấp nhận tồn tại trong cảnh giới mà dân gian thường gọi đó là cõi âm. Hương linh tồn tại trong thế giới cõi âm với tính thời gian dài ngắn cũng tương tự như lục bình trôi không có hướng đi về. Cách thức sống lảng vảng như vậy được gọi là ngạ quỷ, tức là ma quỷ đói khát về cảm xúc, nhận thức, tiêu thụ và nhiều phương diện hưởng thụ khác. Tình trạng vô phương hướng trong tái sinh khiến hương linh tốn nhiều năng lượng. Thay vì để các hạt giống mà họ từng gieo trồng trong suốt quá trình sống có cơ hội trổ quả thì người không có phương hướng do vì chấp trước, tiếc nuối, hận thù, oan ức nên phải bị kẹt lại, mất đi khoảng thời gian trung chuyển quá dài. Điều này giống như sự hành hạ, đày đoạ cảm xúc và tâm thức.
Hành giả là Phật tử có sự tu tập, được huấn luyên tâm thức, chấp nhận vô thường và vô ngã thì khi cái chết diễn ra, xem đó là qui luật bình thường. Ai có sự sống và được sinh ra từ cha mẹ thì chắc chắn phải trải qua cái chết. Vấn đề còn lại là tính thời gian dẫn đến sự tương thích về tuổi thọ hay yểu thọ mà thôi. Phủ định cái chết như một sự thật khiến con người có mặt trong thế giới sự sống như chiếc lục bình trôi vô nghĩa và khổ đau. Chính vì vậy, phải tập huấn luyện tâm thức theo cách làm chủ hành động, nói theo ngôn ngữ Tịnh độ tông gọi đó là “Dự tri thời chí”, tức là nắm bắt và biết rõ giờ khắc mình sẽ ra đi và đi về đâu.
Để hiểu sâu hơn vấn đề này, mời quý vị nghe bài pháp thoại Con người từ đâu đến, chết đi về đâu? được Thầy Thích Nhật Từ giảng vào ngày 13-12-2013 tại Bệnh viên đa khoa Cửa Đông, TP. Vinh.
Xem thêm bài giảng: Sau khi chết ta đi về đâu? do thầy Thích Trí Huệ giảng | Sau khi chết ta đi về đâu? do SC Hương Nhũ giảng
a viết
hạn hẹp