Bồ Tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông (Quê hương Cực Lạc 4/4)- Hòa thượng Tuyên Hóa khai thị
Bồ Tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông
Lúc Phật A Di Đà còn là Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài Quán Thế Âm là con trưởng, Ngài Đại Thế Chí là con kế. Hai vị đại Bồ tát này đang ở thế giới Cực lạc đứng hai bên trái phải để phụ trợ cùng Phật A Di Đà cứu độ chúng sanh. Sau khi đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn, chánh pháp trụ ở đời trải qua vô lượng kiếp, đến nửa đêm sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Bồ tát Quán Thế Âm lại thành Phật, tên là “Phổ Quang Công Đức Sơn Như Lai”. Chánh pháp trải qua vô lượng kiếp thì vào nửa đêm Ngài nhập Niết bàn, lúc đó Bồ tát Đại Thế Chí lại thành Phật, tên là “Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai”.
Bồ tát Đại Thế Chí tu pháp môn niệm Phật chỉ một câu Phật hiệu mà nhiếp thâu “sáu căn” nên đưa đến giác ngộ. Từ niệm Phật đến khi chứng đạo phải trải qua năm mươi hai giai đoạn là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, rồi đến đẳng giác, diệu giác, cho nên Bồ tát Đại Thế Chí cùng với năm mươi hai vị Bồ tát cũng là đại biểu năm mươi hai giai đoạn.
Theo Kinh Lăng Nghiêm, trong chương “Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông”, Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Ta nhớ lại trong vô lượng kiếp trước, có Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang Phật, Diệm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Trong kiếp đầu tiếp nối mười hai vị Phật ra đời, vị Phật sau cùng là Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy ta niệm pháp môn niệm Phật, ta nhập vào chánh định, nên gọi là niệm Phật tam muội ”.
Pháp môn niệm Phật có hai hạng người, một là hạng chuyên nhớ niệm, một người chuyên quên, hai hạng người này cũng từng gặp qua rồi. Một người chuyên niệm là chỉ cho Phật, một người chuyên quên là chỉ cho phàm phu. Phật thì luôn thương nhớ chúng sanh, chúng sanh thì thường quên Phật. Nếu chúng sanh nghĩ đến Phật thì hay biết mấy, nhưng ngặt nỗi là ở đâu họ cũng quên, không có tâm thanh tịnh, tâm giác ngộ.
Phật vì sao lại nhớ đến chúng sanh? Bởi vì Phật biết tất cả chúng sanh trong quá khứ là cha mẹ mình, vị lai sẽ thành Phật và cùng chư Phật hiện tại đồng một thể giác ngộ bình đẳng, cho nên nói “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật”. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo cũng là giáo nghĩa tối cao của Phật giáo. Phật giáo nói năm giới, cấm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu chính là thương yêu bảo hộ tất cả chúng sanh, chuyển hóa chúng sanh bỏ mê sớm trở về nhà. Nhưng tất cả chúng sanh khi sanh đến thế giới này thì bỏ gốc theo ngọn, quay lưng với tánh giác của mình làm những điều hợp với trần tục, nhận giả làm chân, ngay cả quê hương chính mình cũng quên tất cả; quên cả chư Phật, Bồ tát, cha mẹ hiền từ, cũng quên hết. Tu pháp môn niệm Phật có bốn cách như sau: một là trì danh niệm Phật, hai là quán tượng niệm Phật, ba là quán tưởng niệm Phật, bốn là thật tướng niệm Phật. Chỉ sợ người không đủ đức hạnh, không đủ đạo tâm, khi công phu bị cảnh giới ma làm cho mê hoặc. Như hồi tôi gặp một trường hợp tại Hồng Kông, có một vị xuất gia ở chùa Từ Hưng, tu phép “Ban chu tam muội”. “Ban chu tam muội” là thường hành tam muội, ông ấy ở trong phòng như thế đến chín mươi ngày, chẳng ngồi, chẳng nằm chỉ đứng và đi mà thôi. Một hôm, tôi nghe ông ta niệm càng lúc tiếng càng lớn rồi nghe tiếng chân chạy gấp gáp ở trong phòng với tiếng la hét là Phật A Di Đà đã đến rồi, Phật đến rồi … Tôi thấy hơi kỳ lạ, ghé mắt nhìn vào phòng xem thử, biết không ổn, tôi bèn hét lên một tiếng thì ông mới tỉnh ngộ và ở lại trạng thái bình thường. Chuyện gì xảy ra với ông vậy? Là khi đang công phu ông ta thấy đức Phật A Di Đà đến quỳ trước mặt ông ta. Thấy vậy, ông ta tưởng Phật A Di Đà đến đón mình nên liền chạy đến quỳ trước Phật, nhưng thật tế Phật sao lại quỳ trước mặt ông ta chứ? Thực ra, đó chỉ là một con trâu nước biến ra Phật A Di Đà để đến dắt ông ta đi mà thôi. Mà chính vị Tỳ kheo này đời trước là một con trâu, có công cày ruộng ở chùa nên khi chết mới đầu thai lại làm thân người xuất gia tu đạo. Nhưng tánh trâu chưa hết tập khí cũ vẫn còn, cang cường khó điều phục. Nhưng do ông ta tu pháp Ban chu tam muội có thể dứt trừ tập khí xấu ác đó đi. Tuy vậy, đạo đức chưa đủ, định lực chưa kiên cố nên ông bị lạc vào cảnh giới ma.
Nếu như hai người cùng nhau nhớ niệm, mọi người cùng nhau chí thiết nhớ niệm, chẳng buông lơi, chẳng thất niệm thì sẽ theo nhau như bóng với hình, không bao giờ rời xa được. Mọi người ai cũng không quên Phật thì ngay đời này có thể gặp Phật, sau khi vãng sanh thường gần Phật nghe pháp, tu tập, chẳng bao lâu sẽ thành quả vị giác ngộ. Mười phương chư Phật ngày đêm thương xót hộ trì cho tất cả chúng sanh, giống như mẹ luôn nhớ nghĩ đến con. Còn con không nghe lời cha mẹ, bỏ đi không trở về nhà, để cha mẹ ngày đêm trông đợi nhớ thương. Đến khi con nhớ nghĩ đến cha mẹ khẩn thiết như thế, mọi người trong gia đình mới gặp gỡ đoàn tụ được.
Nếu như tất cả chúng sanh trong tâm lúc nào cũng nghĩ đến Phật, nhớ đến Phật, dù bây giờ chẳng thấy Phật, nhưng tương lai nhất định cũng gặp Phật. Bởi vì chúng ta cách Phật quá xa, mà không niệm Phật thì càng xa cách hơn nữa. Người tu pháp môn niệm Phật chẳng phải nhọc công tốn sức phương cách hoặc bí quyết gì cả, chỉ cần chuyên tâm niệm Phật. Khi tâm hành giả và tâm Phật tương ứng thì trí huệ phát sanh, sẽ được giải thoát tự tại.
Người đời dùng những thứ hương thơm để bôi hoa lên thân thể cho thơm, người niệm Phật thì dùng câu Phật hiệu xông lên mảnh đất tâm của mình để tương ưng với pháp thân và trí huệ của Phật, cho tánh giác nơi tự tâm hiển lộ Phật tánh. Vì thế nên nói “Hương quang trang nghiêm”.
Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Khi ta mới phát tâm tu, chuyên lòng niệm Phật, tâm tâm tương tiếp, không gián đoạn, rồi thể nhập vào vô sinh pháp nhẫn. Hiện bây giờ ta trở lại thế giới Ta bà này, thường hay gia hộ và nhiếp thọ những ai chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Bây giờ Phật hỏi về pháp môn viên thông, con chẳng chọn những điều gì khác, chỉ chuyên thâu nhiếp thân tâm, không bị các duyên trần xoay chuyển, tinh tấn thâu nhiếp sáu căn không bị khởi bởi các duyên trần”.
Tịnh niệm chính là không khởi các vọng niệm, chỉ nhất tâm niệm Phật, không có niệm gì khác. Niệm niệm tương tục, không có gián đoạn, niệm Phật niệm đến niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, mỗi niệm chẳng rời tịnh niệm, tâm tâm tương ưng với tâm Phật, chính là “tức tâm tức Phật, tức Phật là tâm” tâm Phật nhất như mà đắc thành chánh định. Cho nên tôi nói pháp môn “niệm Phật” là đệ nhất.
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Người nào từng tụng kinh, thọ trì, biên chép mười lời đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, thì có thể thấy mình sanh về thế giới Tây phương Cực lạc trong hoa sen.
Thế giới Tây phương Tịnh độ chỉ có người nam không có người nữ. Người sanh về đó đều hóa sanh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật, tức liền được Phật A Di Đà thọ ký, cho đến khi thành Phật. Sau khi thọ ký, trải qua vô lượng na do tha trong trăm ngàn vạn kiếp, đến mười phương thế giới chẳng tính được thì tự mình thành tựu trí huệ, tâm tùy thuận chúng sanh làm lợi ích vô số chúng sanh. Người này ngồi ở tòa Bồ đề đạo tràng hàng phục Thiên ma và ma quân ngoại đạo, thành Phật, chuyển diệu pháp luân, giáo hóa chúng sanh, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nhiều như số vi trần ở trong các thế giới phát tâm bồ đề, tùy theo căn tánh của các chúng sanh, dùng phương tiện quyền xảo để giáo hóa họ. Khi căn tánh của họ thành thục, trải qua nhiều kiếp làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Người nam tu thiện và chúng sanh nào có thọ trì đọc tụng “Phổ Hiền hạnh nguyện” hoặc nghe được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, tin tưởng mười đại nguyện vương này, tâm ưa thích, thân thọ trì, đối trước tượng đọc tụng thọ trì, hoặc nói cho người khác nghe về mười đại nguyện này, công đức đó không thể nói hết được. Chỉ có Phật và các bậc Bồ tát La hán mới biết công đức họ nhiều hay ít mà thôi. Khi các bạn gặp được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền thì không nên khởi tâm nghi hoặc. Nên nói:
Tâm người tu đạo chớ nghi
Nghi tâm sanh khởi dễ đi đường tà.
Người tu đạo, khi nghe những lời của Phật và các bậc Tổ sư giảng nói chớ có sanh tâm nghi ngờ. Bạn có tâm nghi ngờ thì dễ rơi vào đường tà, nên tin tưởng và chân thật thọ trì, lắng lòng tiếp nhận đạo lý. Sau đó chí thành thọ trì như thọ trì mười đại nguyện vương. Tụng lâu rồi, càng thông hiểu, sau khi trì tụng mười đại nguyện vương, phát tâm biên chép ấn tống, hoặc giảng nói cho người khác nghe mười đại nguyện vương này.
Mọi người mà hành trì như thế, chuyên tâm trong một thời gian ngắn thì nguyện lực tu hành và công đức đều thành tựu. Người nào trì tụng Phổ Hiền hạnh nguyện được phước nhiều vô lượng vô biên, ở trong biển khổ cứu độ tất cả chúng sanh khiến họ được an vui lợi lạc, giúp họ thoát khỏi biển khổ sanh tử khổ đau, đạt đến Niết bàn giải thoát và được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà.
“A Di Đà Phật” chỉ có bốn chữ, nhưng bao quát tất cả Phật pháp. Mỗi bộ Kinh do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, đều có người thưa thỉnh, chỉ riêng Kinh A Di Đà là không người thưa thỉnh, không ai hỏi mà chỉ tự Phật nói. Tại sao không có người thưa hỏi? Bởi vì không có người hiểu rõ pháp này. Pháp môn Tịnh độ, chúng ta thấy rất đơn giản, nhưng thật tế có bốn chữ “A Di Đà Phật” bao quát tất cả tam tạng Kinh điển, mười hai bộ Kinh.
Mười năm về trước tôi chuyên niệm Phật có sự cảm ứng, nên làm ra một bài kệ:
A Di Đà Phật vạn pháp vương
Ngũ thời bát giáo tận hàm tàng
Hành nhân đản nhân chuyên trì tụng
Tất chí tịch quang bất động tràng.
“A Di Đà Phật” là chỉ câu Phật hiệu, nếu bạn chuyên tâm trì niệm câu Phật hiệu đó, thì tất cả các pháp bạn đều thông hiểu rõ ràng, cho nên nói “A Di Đà Phật vạn pháp vương”. “Ngũ thời” là thời Hoa nghiêm, thời A hàm, thời Phương đẳng, thời Bát nhã, thời Pháp hoa. “Bát giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật, Bất định giáo. Ngũ thời, bát giáo đều bao hàm trong bốn chữ “A Di Đà Phật”. Cho nên người tu chỉ cần chuyên tâm trì niệm câu danh hiệu A Di Đà Phật, nhất định đạt được Thường tịch quang Tịnh độ và tâm như trong đạo tràng bất động.
Có số người nhận định sai lệch rằng: “Công phu niệm Phật là dành cho ông già bà lão, không phải của người tri thức”. Đây là hiểu một cách sai lầm. Niệm “A Di Đà Phật” pháp môn này, người trí thức cũng tu được, ngu si cũng tu được. Nói tóm lại, pháp môn này dành cho ba hạng người ai cũng tu được đó là hạnh thượng căn, trung căn và hạ căn.
Vì sao chúng ta phải niệm A Di Đà Phật? Bởi vì chúng sanh ở thế giới Ta bà rất có duyên với Bồ tát Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Âm ứng hiện ba mươi hai thân để cứu độ họ. Còn đức Phật A Di Đà lại càng có nhân duyên thù thắng, bởi vì đức Phật A Di Đà là thầy của Bồ tát Quán Thế Âm, là giáo chủ ở thế giới Cực lạc. Khi xưa, lúc chưa thành Phật A Di Đà, Ngài tên là Tỳ kheo Pháp Tạng, từng phát ra 48 lời nguyện, mỗi nguyện đều tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, mới nguyện thành Phật.
Thế giới Cực lạc chỉ có người nam, vì người ở đó đều hóa sinh từ hoa sen ra. Người sinh về thế giới Cực lạc, trước hết thác sinh đầu thai vào hoa sen. Chúng ta nhất tâm niệm Phật thì hoa sen bên Cực lạc sẽ lớn từ từ, niệm một câu Phật hiệu, hoa sen từ từ nở ra, niệm nhiều câu Phật hiệu thì càng lớn ra, đến lúc bằng bánh xe chuyển luân. Khi lâm chung, đức A Di Đà Phật hiện thân đến tiếp dẫn chúng ta về thế giới Tây phương Cực lạc. Tánh linh chúng ta ở trong nhụy hoa sen, khi hoa sen nở ra tức thời pháp thân hiện bày, cho nên nói “hoa nở thấy Phật”. Khi hoa sen nở ra thì bạn sẽ là một vị Phật tương lai.
Thế giới Cực lạc cách thế giới Ta bà qua mười vạn ức cõi Phật, người ở thế giới Cực lạc đều từ hoa sen hóa sanh, cho nên nói: “Nguyện sinh Tây phương Tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu”. Tất cả chúng sanh niệm “A Di Đà Phật” thì sẽ sinh về thế giới Tây phương Cực lạc. Phật A Di Đà từng phát nguyện: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, nếu xưng danh hiệu tôi, đều sinh về nước của tôi, hóa sinh trong hoa sen, được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Do vậy, người nào ở thế giới Ta bà xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, khi lâm chung, Phật A Di Đà đến tiếp dẫn người này vãng sanh Tây phương Tịnh độ.
Thập phương tam thế Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Uy đức vô cùng cực.
Vào thời mạt pháp, Phật pháp dần đi đến hủy diệt, tất cả Kinh điển dần biến mất. Vì sao vậy? Vì chúng sanh thiếu phước báu, tội nghiệp sâu nặng, không có nhân duyên để xem Kinh điển, chẳng cần phải nói tương lai, hiện bây giờ có số người không có mắt, tay và các bệnh tật, nên một chữ trong Kinh cũng không thấy, thật là nghiệp chướng làm cho chướng ngại, đây chính là mạt pháp, người có mắt mà không thấy và hiểu Phật pháp rõ ràng.
Vào thời mạt pháp các Kinh điển lần hủy diệt hết, đầu tiên là Kinh Lăng Nghiêm, sau đó đến các Kinh điển khác, cuối cùng là Kinh A Di Đà. Bộ Kinh A Di Đà này sẽ trụ ở đời hơn một trăm năm để độ tất cả chúng sanh. Đến hết thời gian đó, Kinh A Di Đà cũng diệt mất, chỉ còn câu hồng danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trụ ở đời một trăm năm nữa để độ tất cả chúng sanh. Qua một thời gian chỉ còn lại câu hồng danh bốn chữ “A Di Đà Phật” lại trụ ở đời một trăm năm nữa độ thoát vô số chúng sanh. Cuối cùng bốn chữ “A Di Đà Phật” cũng diệt mất luôn. Phật pháp đến lúc này có thể nói là hoàn toàn hủy diệt.
Kinh A Di Đà, chẳng ai thưa hỏi mà tự Phật nói ra, bởi vì bộ Kinh này vô cùng quan trọng. Chúng ta là người học Phật có duyên gặp được pháp môn này, chớ có xem thường bỏ qua. Người tham thiền, tham câu “Niệm Phật là ai”, đủ thấy trong quá khứ chúng ta đều có niệm Phật qua, mới biết tham thiền “niệm Phật là ai”. Nếu như không có niệm Phật qua mà tham câu “Niệm Phật là ai?”, căn bản bạn chưa từng niệm Phật thì ai niệm Phật đây? Bạn là người chưa từng niệm Phật thì làm sao có thể nói “Niệm Phật là ai?”. Từ câu thoại đầu “Niệm Phật là ai” đủ biết trong quá khứ mỗi chúng ta trong đây ai nấy cũng từng niệm Phật qua rồi. Chẳng qua niệm nhiều hay ít mà thôi, có thành tâm niệm hay lúc niệm lúc không mà thôi. Mọi người chúng ta siêng năng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, sẽ được vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, thế giới này có vô lượng chúng sanh vui hưởng đầy đủ lạc thú.
Người niệm Phật chính là Phật
Rất nhiều người cho rằng pháp môn niệm Phật không rõ ràng. Có người thiếu niềm tin dù họ có niệm thì cũng niệm qua loa, không mấy tha thiết. Tham thiền cũng chính là niệm Phật, niệm Phật cũng chính là tham thiền. Người hiểu tham thiền mới là người hiểu niệm Phật, người hiểu niệm Phật mới là người tham thiền. Tham thiền tức thân là Phật, có thể ngay mình cũng quên luôn, thậm chí ngay Phật cũng quên, bởi vì họ ự hỏi “Niệm Phật là ai”.
Người niệm Phật nhất định có cơ duyên sẽ thành Phật, tâm tâm niệm niệm lúc nào cũng nghĩ đến Phật, cuối cùng nhất định sẽ thành Phật. Người tham thiền lại nói cái “chẳng được” chính là Phật, bởi vì tham thiền là tìm Phật, chẳng chịu nhận mình là Phật, tham câu “Niệm Phật là ai?” tìm tới tìm lui chính là hướng ngoại rồi.
Niệm Phật chính là trở về với Phật, trở về với tâm của chính mình, chẳng cần hướng ngoại mà tìm. Niệm Phật chính là hòa Phật thành một phiến, nhất định vãng sanh về Tây phương Cực lạc. Bạn niệm Phật thì Phật niệm lại bạn, kết quả là thành Phật rồi, các bạn khỏi cần phải nghiên cứu tìm tòi, chỉ chuyên niệm Phật cho tốt là được. Tham thiền cũng rất tốt, nhưng tham thiền cần phải chịu khổ, thứ nhất cần phải chịu đau chân mỏi gối; thứ hai mỗi giờ khắc phải xem coi lại chính mình quét sạch các vọng tưởng chưa. Tham thiền khó hơn niệm Phật, niệm Phật dễ hơn. Các bạn chưa thấy sự vi diệu thù thắng của việc niệm Phật.
Tôi nói với các bạn một câu rất chân thành, tôi làm mọi việc mà tâm luôn hoan hỷ là nhờ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi ngủ, tôi cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ở trong mộng cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi đứng cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bất cứ lúc nào cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bởi vì A Di Đà Phật hòa với tôi lại thành một.
Bình thường niệm Phật được duyên lành
Nếu như bạn chỉ nghĩ khi lâm chung niệm Phật thì sanh tâm lành, thật ra chẳng dễ dàng như thế đâu. Khi lâm chung thân tứ đại này tan ra, thì người này bị nghiệp lực dẫn dắt thần thức tiếp tục đi qua một cảnh giới khác chuẩn bị cho đời sống tiếp theo.
Cho nên nói: “Chim sắp chết, tiếng kêu của nó rất bi ai. Người sắp chết, lời nói của họ nghe rất hiền”. Người sắp lâm chung cũng thế, trông rất tội nghiệp nếu ngay lúc đó tâm họ sinh khởi những điều thiện trong một đời họ đã làm việc gì cho mọi người và cho chính mình. Việc gì đúng, việc gì sai sẽ đều hiển hiện rõ ràng. Nếu người nào khi sống làm những việc không tốt, lúc hấp hối lại phát khởi tâm sám hối một cách tha thiết, rồi chỉ cần nghe một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ tát hoặc một danh hiệu của một vị Bích chi Phật thì tất cả tội lỗi dù có vô lượng cũng đều tiêu diệt. Căn lành vô lượng sinh khởi ngay lúc đó. Cho nên lâm chung là lúc rất quan trọng, vì nó quyết định cuộc sống đời sau hạnh phúc hay đau khổ. Nhưng phát ra tâm lành để sanh về cảnh giới tốt chẳng phải là chuyện dễ dàng khi thiếu những nhân duyên tốt.
Vì sao bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Chính là chuẩn bị đến lúc lâm chung không bị quên câu Phật hiệu, vì khi bình thường chúng ta niệm, thì khi lâm chung không bao giờ quên Phật. Nếu bạn muốn khi lâm chung mới niệm, để phát sinh tâm lành, khi ấy thật chẳng dễ chút nào. Nếu phát sinh được thì thật vô cùng hiệu nghiệm, chỉ cần nhất tâm sám hối thì ngay lúc đó tất cả tội nghiệp đều tiêu trừ.
Để lại một bình luận
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.