Khảo cứu theo truyền sử trong đại tạng, khi thành đạo Vô thượng Chánh giác, chưa vội rời đạo tràng Bồ Đề, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật với Pháp thân Tỳ Lô Giá Na, cùng chư đại Bồ tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết Kinh Hoa Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long Thọ Bồ tát, Kinh Hoa Nghiêm này mới được lưu truyền bằng Phạn văn. Toàn bộ kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm.
Đến nhà Đường, Đại sư Thật Xoa Nan Đà từ nước Vu Điền mang bổn kinh chữ Phạn này sang Trung Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Đại Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ phẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Nhập Pháp Giới”, cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn văn chưa được dịch ra Hán văn.
Kế đó, Pháp sư Bác Nhã, người Kế Tân dịch thêm phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” ra Hán văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển của bổn chữ Hán trong bổn Việt văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”, ta quen gọi là Kinh Hoa Nghiêm.
Nội dung của kinh này đứng trên cảnh giới bất tư nghì giải thoát, chư Pháp thân Đại sỹ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương công đức cùng cảnh giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất tư nghì của chư đại Bồ tát.
Kinh Hoa Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất tư nghì giải thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong kinh này đều lấy toàn thể Pháp giới tánh làm lượng. Đã là toàn thể Pháp giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng gọi là vô ngại Pháp giới.
Từng bực cứu cánh của vô ngại Pháp giới là Sự sự vô ngại Pháp giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư Pháp thân Bồ tát thời được từng phần.
Muốn hiểu thấu phần nào cảnh giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ bốn Pháp giới, bốn cấp bực mà chư Đại thừa Bồ tát tuần tự tu chứng:
Lý vô ngại Pháp giới
Sự vô ngại Pháp giới
Lý sự vô ngại Pháp giới
Sự sự vô ngại Pháp giới
“Lý” tức là chơn lý thật tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả Pháp, nên cũng gọi là Pháp tánh hay Pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả Pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi là “Lý vô ngại Pháp giới”. Người chứng được lý vô ngại này chính là bực thành tựu căn bổn trí, mà bắt đầu dự vào hàng Pháp thân Bồ tát.
Tất cả Pháp “Sự” đều đồng một thể tánh chơn thật, tức là đồng lấy Pháp tánh làm tự thể. Toàn thể “Sự” là Pháp tánh, mà Pháp tánh đã viên dung vô ngại, thời toàn sự cũng vô ngại, nên gọi là “Sự vô ngại Pháp giới”. Người chứng được Pháp giới này chính là bực Pháp thân Bồ tát thành tựu sai biệt trí (cũng gọi là quyền trí, tục trí, hậu đắc trí).
Lý là thể tánh của “Sự” (tất cả Pháp), “Sự” là hiện tượng của “Lý tánh”. Vậy thời lý tánh tức là lý tánh của sự, còn sự lại là sự tướng của lý tánh. Chính Lý tánh là toàn sự, mà tất cả sự là toàn Lý tánh, nên gọi là “Lý sự vô ngại Pháp giới”. Người chứng được lý sự Pháp giới này thời là bậc Pháp thân Bồ tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn bổn trí và sai biệt trí).
Tất cả sự đã toàn đồng một thể tánh mà thể tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự sự vô ngại tự tại, nên gọi là “Sự sự vô ngại Pháp giới”. Người chứng được Sự sự Pháp giới này là bực Pháp thân Bồ tát thành tựu nhứt thiết chủng trí. Viên mãn trí này chính là Đấng Vô Thượng Giác (Phật Thế Tôn).
Sự sự vô ngại Pháp giới dung thông tự tại, nội dung của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn kinh này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học giả tiện tham cứu:
Sự sự là tất cả sự hoặc là tất cả Pháp, tức là toàn thể không gian và thời gian.
Về không gian dung thông vô ngại văn kinh nói:
Bao nhiêu vi trần trong thế giới
Trong mỗi vi trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh giới tự tại của Như Lai
…
Vô lượng vô số núi Tu Di
Đều đem để vào một sợi lông,
Một thế giới để vào tất cả
Tất cả thế giới để vào một,
Thể tướng thế giới vẫn như cũ
Vô đẳng vô lượng đều cùng khắp.
…
Trong một chân lông đều thấy rõ
Vô số vô lượng chư Như Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả Phật
…
Về thời gian dung thông vô ngại văn kinh nói:
Kiếp quá khứ để hiện, vị lai,
Kiếp vị lai để quá, hiện tại,
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài vắn: hạnh giải thoát.
…
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập.
…
Về không gian và thời gian dung thông vô ngại nhau, văn kinh nói:
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc độ số vô lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực.
…
Tất cả sự không ngoài thời gian và không gian. Thời gian dung thông thời gian, không gian dung thông không gian, thời gian dung thông không gian, không gian dung thông thời gian. Một không gian dung thông tất cả không gian, một thời gian dung thông tất cả thời gian, tất cả dung thông với một, thời gian với không gian, một cùng tất cả cũng đều dung thông như vậy. Đây chính là Sự sự vô ngại Pháp giới, mà cũng chính là cảnh giới giải thoát bất tư nghì mà Kinh Hoa Nghiêm này lấy đó làm nội dung như đã nói ở trên.
Lược giải một vài điều, để giúp phần nào cho học giả khi cần thấy phải thấu triệt nội dung của kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ Hoa Nghiêm đại sớ của Tổ Thanh Lương và Thập huyền môn của Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công đức phiên dịch Việt văn này hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng về Tịnh Độ, đồng sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Đức
Thủ Đức ngày Phật nhập Niết Bàn
Rằm tháng Hai, Phật lịch 2508 – Dương lịch 1964
Hân Tịnh, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh (1917~2014)
Để lại một bình luận
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.