1. Dẫn nhập
Tôi đi tìm Phật Tánh, trả lời ngay tức thì: không có gặp. Tại sao? Vì ông đã khởi niệm đi tìm kiếm nó nên ông không có Phật Tánh. Tại sao thế? Phật Tánh có sẵn trong thân của chúng ta rồi. Khi dấy niệm đi tìm nó là nó đã ở ngoài thân ta, thì làm sao tìm thấy được. Lý lẽ thật đơn giản. Một thiền sư ngắm nhìn một cái kén, mà con nhộng trong kén đang cố gắng nhoi đầu lên cốt ra khỏi miệng kén. Mà miệng kén thì nhỏ hẹp, còn con nhộng thì bụng to nên chỉ nhoi đầu lên mà không ra được. Thiền sư từ bi thấy tội nghiệp, bèn lấy kéo cắt rộng miệng của cái kén ra. Con nhộng ra ngoài dễ dàng rồi đi khập khểnh, không bay thành con bướm được vì hai cánh của nó nhỏ và yếu đuối. Con nhộng chết. Thiền sư cảm thấy tội lỗi sám hối và quan sát con nhộng khác. Con nhộng có một cái bụng to chứa đầy chất dầu (oil), khi nó cố nhoi người lên khỏi cái kén thì miệng kén nhỏ đủ ép bụng chứa dầu của nó lại, nên tất cả dầu đó chạy ra hai cánh của nó làm cho cánh nó dài to rộng ra và nhẹ nhàng. Nên khi nó ra ngoài được thì hai cánh đó làm cho nó bay lên cao thành con bướm, với màu sắc của cánh đẹp do chất dầu đó dưới ánh mặt trời. Tại sao có hiện tượng kỳ diệu như vậy? Tại sao có miệng kén chỉ đủ rộng cho đầu của con nhộng. Tại sao lại có qui luật này. Tất cả tôn giáo đều cho là do Thượng đế tạo ra. Đạo Phật thì không có một vị thượng đế nào, mà là đó là qui luật tự nhiên mà có, hội tụ các duyên lại mà thành. Luật tự nhiên đó gọi là bản tánh của con nhộng. Bản tánh này nó có sẵn trong thiên nhiên, từ khi vũ trụ được thành hình, bất biến không có sinh ra và cũng không có diệt mất đi. Đó còn gọi là sự bảo tồn sự sống của vạn vật hay là bản tánh của vạn vật. Vạn vật sinh ra có bản tánh tự nó, nó bảo vệ cái sự hiện hữu của nó. Nếu không bảo vệ sự sinh tồn được thì nó tự tạo ra số lượng cao sinh sản như sinh bằng trứng chẳng hạn. Bản tánh đó còn gọi là tánh giác, tự bản thân con nhộng nó Giác là biết cách làm như vậy để sinh tồn. Tánh giác đó là Phật Tánh. Như vậy một cục đá cũng có tánh giác này, là nó biết cách làm cho nó cứng rắn, tạo tầng lớp nham thạch ép lên nhau cứng rắn và khít khao để sinh tồn với mọi điều kiện chung quanh, như mưa bão nước chảy và các điều kiện khác. Chữ Phật ở Phật Tánh không có nghĩa là một đơn vị chủ thể con người hay thần thánh hay một năng lượng gì hết. Chữ Phật đó có nghĩa là sự hiện hữu của vạn vật muôn loài, tự biết cách sinh tồn trên trái đất này. Nhưng vì sinh vật không có uẩn Thức nên cái biết đó, tự nhiên nằm sẵn trong bản thân của chúng, mà chúng không bao giờ biết nhận ra được, ngoại trừ con người chúng ta. Chúng ta có uẩn Thức nên có ý thức và có biết, cái biết thứ hai của cái biết đầu do ý thức phân biệt và suy luận, để hiểu biết sự vật. Biết rằng ta có biết đầu tiên, do ý thức phân tích. Biết thứ hai mới gọi là Tánh biết, còn cái biết đầu là cái Thức biết mà thôi. Mọi vạn vật đều có cái biết đầu ngay cả con người. Còn cái biết thứ hai chỉ có con người mới có được, và nhờ đó mà tu tập để thành Phật giải thoát luân hồi. Cả hai cái biết đều là Phật Tánh. Đại thừa nói về Phật Tánh trong hai kinh Pháp hoa và Đại bát niết bàn.
2. Phật Tánh là gì?
Phật Tánh là Tánh Giác. Giác cái gì? Giác cái Tự tánh, cái vô sanh, cái như như bất động, cái chân thật tuyệt đối. Là Chân Tâm là đại từ bi là chân thật là sáng suốt là cái gì tốt đẹp lý tưởng nhất. Giải thích đơn giản này đã được nhiều người giải rộng ra, qua bao nhiêu thời gian từ ngày đức Phật giảng lên điều đó. Đại thừa là môn phái lấy Phật Tánh làm cốt lỏi của sự tu tập nên gọi là Kiến tánh thành Phật. Tánh đây là Phật Tánh. Xưa có chuyện Đạo sanh nói Phật Tánh có trong tất cả chúng sanh và Nhất xiển đề cũng có Phật Tánh và có thể thành Phật. Phật Tánh còn gọi là Pháp thân. Như đã nói trên, chỉ có con người mới có tánh giác thứ hai này, còn lại vạn vật chỉ có cái biết thứ nhất là cái biết của tự nhiên, còn gọi là qui luật tự sinh tồn của vạn vật. Vì vạn vật không có Uẩn Thức nên không có ý thức phân biệt suy luận để hiểu biết của cái biết thứ nhất. Vạn vật tự biết theo qui luật tự nhiên mà thôi. Như thế thì Phật Tánh đối với con người là có hai cái Giác, còn vạn vật chỉ có một cái giác. Như con chó có Phật Tánh nhưng nó không có uẩn thức ý thức phân biệt, nó không biết là nó hiện hữu nên con chó nhìn vào tấm kính thấy mặt nó thì nó sủa chống đối vì nó không biết nó là ai. Nhiều người cứ nghĩ tánh giác là Phật Tánh là cái giác thứ nhất mà không hiểu con người còn có cái giác thứ hai nửa. Chính nhờ có cái giác thứ hai nên con người tìm cách thoát ra vòng luân hồi và đạo Phật mới ra đời vì vòng luân hồi chính là cái Khổ to lớn nhất của con người. Tu đạo phật là phát triển cái biết cái giác lần thứ hai vì nhờ nó mà ta tu tập được. Tu tập thoát luân hồi mà Phật dạy là đạo ta có vị giải thoát là tánh giác này. Khi biết cái biết thứ hai nầy nên ta mới diệt bỏ hết được lậu hoặc là cái đau khổ của kiếp người. Chúng ta thường nghĩ đơn giản tánh giác là tánh biết là có ý thức nên mới có biết và vì vậy con nhộng không có biết, cục đá không có biết làm sao nó có tánh giác? Thật tế con nhộng làm theo luật tự nhiên có từ muôn đời, khi chúng ta nghiên cứu nó thì chúng ta thấy nó vận hành theo luật tự nhiên nên gọi là nó làm vì nó có tánh biết đó. Nó không có ý thức nhưng nó vận hành như là nó biết cách làm như vậy. Con người có ý thức nên biết và ta nhìn ra được vạn vật đều vận hành theo qui luật tự nhiên làm như nó biết để sinh tồn, cái biết đó do ý thức chúng ta tìm ra và gắn cho nó. Theo kinh luận thì Phật Tánh được giảng rộng ra rất nhiều vì phân tích trong cái bản thể cái Ngã chân ngã của chúng sinh. Phật Tánh còn gọi là Pháp tanh. Trong bài nói về Tính kham nhẫn trong đạo phật hay là tính Thụ động, thiền sư Suzuki cho Phật Tánh hay là Pháp tánh là cái không phải Ngã nhưng lại nằm trong Ngã. Đó là khả tính nằm ở giác ngộ. Thiền sư Suzuki viết: “MỘT THỰC TẠI SIÊU BẢN NGÃ: Phật Tánh (Buddhata) hay Pháp tánh (Dharmata) là danh từ các nhà Đại thừa đặt ra chỉ cho cái không phải là ngã nhưng nằm trong ngã. Bởi cớ đó, các nhà Đại thừa mới có ý thức về tội lỗi, và đồng thời, về khả tính của giác ngộ. Phật Tánh là tinh thể của Phật quả, nếu không có Phật quả không bao giờ đạt được trong thế gian. Khi đức Phật được nhìn nhận một cách vô ngã và khách quan, thì đấy là pháp (Dharma) – luật tắc, chân lý hay thực tại; và Phật Tánh (Dharmata) là cái thiết lập ra Pháp (Dharma). Pháp tánh và Pháp có thể tương giao, nhưng kinh nghiệm của các nhà Đại thừa được mô tả nhiều hơn trong phạm vi Phật Tánh. Với quan niệm Phật Tánh, đức Phật lịch sử trở thành một đức Phật siêu việt. Sự phát khởi và tạo tác của Phật Tánh trong các phàm nhân tội lỗi không thể hoàn thành bằng luận lý và tư biện; lịch sử tôn giáo chứng minh điều đó. Mặc dù khuynh hướng trí năng nổi bật, đạo Phật dạy chúng ta hãy kêu gọi đến sự thể khác. Ý thức sâu xa về tội lỗi, cường độ khát vọng mong thoát khỏi hữu hạn tính của hiện hữu cá biệt, và sự nhiệt tình của nỗ lực cố phát khởi Phật Tánh – đấy là những điều kiện chính yếu. Kinh nghiệm tâm lý kết quả từ đó dĩ nhiên sẽ có quan hệ với cảm thức về tính thụ động hay kham nhẫn. Đối với Đức Phật, không có sự phân biệt giữa người tham cứu và đối tượng được tham cứu. Ngài hoà nhập vào bản tính tuyệt đối (Dùng thuật ngữ tư tưởng bình đẳng, tâm tịch tĩnh toàn mãn, hoặc tâm Bồ đề là để lý giải về tâm lý). Nhưng cần phải có một đột biến nào đó, tức là ngộ (satori) để thực hiện tâm thái trên. Do đó dù tâm thái đồng bản tính nằm sẵn trong mỗi người chúng ta, vẫn cần một sự thức tỉnh đột biến đặc biệt. Đó chính là thủy giác hoặc chứng ngộ. Và khi đã xảy ra, chúng ta nhận biết là chúng ta đang ở trong trạng thái giác ngộ, hoặc là bản giác. Vì thế khi đức Phật giác ngộ, ngài bảo là thấy ai cũng có bản tánh của Như Lai. Mọi vật, không phải chỉ là loài hữu tình mà ngay cả đất đá vô tình, không chừa một ai … tất cả đều là Phật. Nhưng chúng sinh không tự nhận biết, phải cần đến thủy giác mới có thể nhận biết hiện trạng đó”.[1]
Theo tác giả Lâm như Tạng viết về Phật Tánh: “Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật.
Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện.
Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
Pháp Bảo Đàn Kinh phẩm thứ hai viết: “Dẫu kẻ ngu, Dẫu người trí cũng đều có Phật Tánh như nhau. Chỉ tại sự mê, ngộ chẵng đồng đó thôi. Cho nên mới có kẻ ngu người trí.
Phật Tánh cũng tức là Chân Như, tánh chân thật như thường, như nhiên không biến đổi, chẳng sanh chẳng diệt. Song với kẻ ngu, độn trí, vì bị nhiều dục vọng, nghiệp chướng ngăn che nên khiến cho Phật Tánh, Chân Như bị lu mờ. Còn đối với người trí ít tham, ít dục vọng, thường hành việc tu tập nên Chân Như, Phật Tánh dần dần hiện rõ ra, biết điều sai trái nên tránh, theo lẽ phải, tu tâm dưỡng tánh thì Tánh Giác lần lần hiển hiện.
Đối với chúng sanh trong Thập Giới, Phật Tánh trong ba giới Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh thì u tối, kém cõi. Thiên, Nhơn, A Tu La thì khá hơn. Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát càng tỏ rõ hơn nhiều; cho đến Phật thì Phật Tánh hoàn toàn sáng suốt tỏa chiếu.
Kinh Niết Bàn quyển 25 viết: Bồ Tát biết rằng Phật Tánh có bảy đức tánh, bảy nghĩa lý: (1) Thường; (2) Tịnh; (3) Thật; (4) Thiện; (5) Đương kiến (những gì ta đang thấy và sẽ thấy); (6) Chơn; (7) Khả chứng.”[2]
Qua hai dẫn giãi trên chúng ta nhận ra được rằng Phật Tánh có từ lúc có kinh Đại thừa, nó đồng nghĩa với Chân như, Chân tâm, Tri kiến Phật. Nó mở rộng ý nghĩa đến độ bất khả tương nghị không thể nghĩ bàn. Vì những danh từ rất trừu tượng như Phật Tánh, Chân như, Chân tâm, làm cho chúng ta không thể hiểu thấu đâu là Phật Tánh, và cho đó là siêu việt vượt lên trên ý thức của chúng ta. Chỉ người nào ngồi thiền đạt được Định, Giác ngộ thì mới hiểu thấu được Phật Tánh, Chân tâm, Chân như. Ý thức phân biệt không thể xen vào sự thấu hiễu này gọi là Giác ngộ, nên chúng ta buông xuôi không tìm lời giải thích. Thí dụ 7 đức tánh của Phật Tánh là Thường Tịnh Thật Thiện Đương kiến Chân Khả chứng. Tất cả danh từ này đều trừu tượng và mơ hồ, thì làm sao ý thức phân tích suy luận thấu hiểu được. Chỉ có Phật mới hiểu Phật Tánh. Tánh giác chỉ dần dần lộ hiện ra khi chúng ta tu tập, tu tâm dưỡng tánh lâu ngày. Như vậy với kết luận ban đầu là tôi đi tìm Phật Tánh là không bao giờ tìm thấy được. Vì thấy được là thành Phật rồi. Nhưng chúng ta phải dùng ngôn ngữ để diễn đạt Phật Tánh, để chúng sanh làm nhân tố tu tập tìm thấy Phật Tánh. Chúng ta biết vạn vật trong vũ trụ đều vận hành có một qui luật, mà các nhà khoa học tìm kiếm chứng minh các qui luật đó vì nó có sẵn trong vũ trụ rồi. Nhà khoa học chỉ tìm cái có sẵn chứ không sáng tạo cái gì mới. Tương tự kinh nói Phật Tánh là cái có sẵn trong ta rồi, nên ta đi tìm nó cũng như nhà khoa học đi tìm các qui luật tự nhiên này. Chúng ta là nhà khoa học đi tìm Phật Tánh trong chúng ta bằng cách nào? Dĩ nhiên phải dùng ý thức phân biệt tư duy suy luận, nhưng các Tổ các bậc tu lâu năm đều bảo chúng ta thoát khỏi sự bám trụ, tánh phân biệt nhị nguyên, thoát ra được cái Ngã bằng thiền định, để khám phá ra Phật Tánh bằng Trực giác. Vô trụ, vô nhị nguyên, vô niệm, vô vi, vô không gian, vô thời gian, vô số lượng, vô Ngã, vô chứng, vô đắc, thì mới phát hiện được Tánh giác. Tại sao đạo Phật đại thừa đưa ra nhiều phức tạp, nhiều trừu tượng mơ hồ cho người đi tu? Đưa nhiều siêu việt vượt trên có/ không vượt trên ý thức? Chủ trương của đại thừa là nếu bạn bám trụ vào cái sinh diệt, thì không bao giờ bạn hiểu thấu được cái vô sinh diệt. Còn sinh diệt là Tục đế và Chân đế là Vô sanh. Bạn phải đi ngược thời gian về cội nguồn thì mới thấu hiểu được Vô sanh pháp nhẫn. Ở thế kỷ chúng ta sự chế tạo phần mềm chương trình của hệ thống vi tính, chúng ta nhận ra được mọi sắp xếp được thuần duy ý thức. Nếu bỏ đi ý thức thì chúng ta đi vào vô thức là đi vào nơi không kiểm chứng được. Cái tánh giác xem như trực giác, là cái phần vô thức không kiểm soát được. Tóm lại lời giải thích có vẻ có lý nhất là chưa có ai ngộ đạo, nhận rõ Phật Tánh là gì nên chưa có giải thích nào được xem là đúng nhất, để hiểu thấu được. Và khi Đại thừa đưa ra Phật Tánh để biện minh chúng sanh có Phật Tánh nên tu thành Phật, trong khi Nguyên thủy cho là không ai tu thành Phật được chỉ là A La hán mà thôi. Vì biện minh như thế, nên Đại thừa giải thích Phật Tánh là hình thức siêu việt như thiền sư Suzuki viết ở trên. Đại thừa chống đối Nguyên thủy cho là chấp thật còn đại thừa chấp giả, như huyễn rồi siêu việt không thật cũng không giả, vượt lên trên thật giả siêu việt. Thế nên Đại thừa cho rằng Kiến tánh thành Phật. Đến khi kinh Pháp hoa ra đời thì chỉ gom lại một Phật thừa là có Phật Tánh trong đó làm cốt lỏi. Như vậy giác ngộ đồng nghĩa thấy được Phật Tánh.
- Kiến tánh thành Phật có thật không?
Kiến là sự biết một cách tự nhiên không cố gắng phân tích suy luận thoát cái Ngã xen vào nên gọi là Kiến. Còn có tư duy có phân tích có suy luận thì cố gắng đào sâu vào để hiểu thấu thì gọi là Khán Tâm để đối lại kiến Tánh. Kiến tánh được đưa ra từ thời Lục tổ Huệ Năng do Thần Hội đệ tử của người viết quyển kinh Pháp bảo đàn kinh. Thần Hội giải thích đường lối tu tập của Thầy mình là Huệ Năng là Vô niệm nên không cần kinh luận bất lập văn tự, để tự nhiên thiền vô niệm thì Phật Tánh sẽ lộ ra, nên gọi là Kiến tánh là kiến Phật Tánh tự nhiên như gương đài đã sáng sẵn rồi chỉ cần lau bụi vô minh là hiện ra. Đường hướng đó gọi là Đốn ngộ. Còn đường hướng của Thần Tú miền bắc là tiệm tu là Giới Định Tuệ tu từ từ mới đạt tánh giác. Cả hai lối tu này đều mang đến kết quả là thành Phật. Nhưng có ai biết được rằng Kiến tánh thấy Phật Tánh rồi đến thành Phật là trải qua hàng triệu kiếp tu tập. Không có việc kiến tánh rồi thành Phật như một kết quả của một việc làm một hành động. Phật đây là quả vị Phật. Cho nên sửa lại Kiến tánh rồi thành Nhân tố Phật. Tương tự ta niệm A di đà Phật là tạo ra một nhân tố về được cõi Tịnh Độ. Còn việc về được hay không là vẫn còn chưa rõ ràng. Tu phật không bao giờ là Tu tắt. Đó là chân lý. Nguyên thủy bảo chỉ có một vị trí Phật là Thích ca Mâu Ni còn lại là A la hán vì 3 điều : 1 . là không có người Thầy nào dạy mà đắc đạo .2. đạt được Tánh giác tuyệt đối diệt trừ tận căn gốc các lậu hoặc của thân phận con người. 3. Là đạt được 3 cái minh là sáng suốt biết quá khứ bao nhiêu ngàn kiếp của mình bằng niệm đi ngược thời gian biết được hết tất cả muôn kiếp trước. Minh thứ nhất là Đức Phật nhìn biết được kiếp trước của chính mình bao nhiêu kiếp trăm ngàn kiếp. Minh thứ hai là biết hết kiếp trước của người, chúng sanh đối mặt. Cái minh thứ hai này được diễn tả đầy đủ chi tiết trong kinh Đại bát niết Bàn lúc Ananda hỏi Phật về các vị tỳ kheo trong tăng đoàn. Họ tu tập sẽ đạt kết quả ra sao trong kiếp này kiếp sau hay không còn kiếp tiếp theo nữa. Theo Nguyên thủy thì có 2 trang thái tu tập là đang đi tu và đã tới nơi rồi. Đang đi thì đắc hai quả là Dự lưu và Nhất lai, còn đến nơi rồi thì đắc 2 quả là Bất lai và A la hán. Và minh thứ ba là biết cách diệt trừ đau khổ giải thoát luân hồi là Tứ diệu đế Vô ngã tướng. Tất cả chúng sanh đều tu tập theo người, như vậy là tu đó có Thầy dạy là phật pháp của người thì không thể đắc thành Phật quả được. Đại thừa thì cho rằng Phật nhiều vô số kể như cát sông Hằng vì ai cũng có Phật Tánh thì tu thành Phật. Chỉ cần kiến tánh biết được Tánh Phật thì thành Phật. Lý thuyết này chưa có ai chứng nhận và dẫn giải được cho đến ngày nay. Họ đều trả lời: người tu thành Phật có bao giờ nói là mình chứng đắc thành Phật bao giờ? Tại sao thế ? vì khi tu đến giác ngộ thì vô chứng vô đắc, lý luận là người sinh diệt luân hồi là con bịnh, tu theo Phật là dùng toa thuốc chữa bịnh. Khi bịnh hết rồi thì toa thuốc cũng bỏ. Vậy có gì gọi là chứng đắc khi người bịnh hết bịnh thoát luân hồi. Lý thuyết thứ hai là chúng sanh có lậu hoặc đầy đủ, tu là làm cạn dần lậu hoặc làm mất dần đi. Đến khi hết còn lậu hoặc thì là mất đi chứ có chứng đắc gì đâu? có được cái gì đâu? Chỉ là trở về cái nguyên thủy trong sáng tinh anh ban đầu, vì bao nhiêu kiếp lậu hoặc dơ bẩn ô nhiễm nầy rửa sạch trong sáng mà thôi. Tu là làm mất đi làm cạn dần đi lậu hoặc, chứ không đạt cái gì hết thì làm sao gọi là chứng đắc có được? Cuối cùng Giác ngộ rồi mới khởi tu tức Đốn ngộ rồi Tiệm tu. Và tiệm tu này có thể nhiều đường đi như nguyên thủy, tịnh độ, thiền, Hoa nghiêm, Mật tông và nhiều nhiều đi nữa. Kết lại là Thấy Phật Tánh rồi mới khởi tu chứ chưa thành Phật được.
4. Những tác động liên quan với Phật: [3]
Phật đắc đạo truyền bá phép tu thì gọi là chủ thể là thế tôn là Phật. Từ đó có rất nhiều những tác động liên quan với Phật bao gồm:
1. Phật Tánh: Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh
2. Phật Tánh giới: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Phật Tánh ấy vốn không nhiễm trược, nó rời khỏi mọi tội lỗi. Nếu nhà tu hành biết tùy thuận theo nó, tu giữ lấy thân khẩu ý thanh tịnh, như vậy gọi là Phật Tánh Giới.
3. Phật tâm: Tâm đại từ đại bi, tâm giác ngộ, dứt các mê hoặc, thương tất cả chúng sanh, quyết cứu thoát cho chúng sanh khỏi các khổ não và độ cho họ thành Phật. Ngược lại, Chúng Sanh Tâm thì tâm tánh mê tối, tham dục, đầy phiền não, ích kỷ, chi biết lo cho mình mà thôi.
4. Phật tâm ấn: Đó là nói đến sự truyền thọ Phật Tâm. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tâm, Phật Tánh nhưng không tự biết mình sẳn có Tánh ấy do đó khi thực hành tu tập mà không phát đại nguyện để tu thành Phật. Bậc tôn sư xét rằng trình độ và chí hướng của đệ tử mình có thể thọ lãnh đại đạo bèn khai thị, chỉ hướng cho đệ tử pháp tu khai mở tâm Phật của chính đệ tử đó để họ tiến tu đến khi thành Phật. Đó gọi là dĩ tâm ấn tâm cũng gọi là Phật Tâm Ấn.
5. Phật thuyết: Từ kim khẩu của đức Phật diễn giảng, tùy theo căn cơ mà độ chúng sinh. Các kinh do Phật thuyết thường khởi đầu bằng câu nầy của ngài A Nan: Tôi nghe như vầy (như thị ngã văn). Phật không viết Kinh, ngài chỉ thuyết pháp. Những bài thuyết pháp của Ngài, sau khi Phật nhập Niết Bàn, chư đệ tử của ngài họp nhau lại mà chép thành Kinh.
6. Phật thừa: Bouddhayana (sanscrit): cổ xe của Phật, tức là giáo pháp đưa người đến quả vị Như Lai. Cũng gọi là Nhất Thừa, Nhất Phật Thừa. Thinh Văn Thừa ví như cổ xe dê. Duyên Giác Thừa ví với cổ xe nai. Bồ Tát Thừa ví với cổ xe bò. Phật Thừa ví với cổ xe bò trắng lớn.
7. 10 quả vị Phật thừa: 1-Thậm thâm nan tri quảng minh trí huệ địa.2-Thanh tịnh tự phần oai nghiêm bất tư nghì minh đức địa.3-Thiện minh nhựt tràng thiệt tướng hải tạng địa.4-Tinh diệu kim quang công chư thần thông trí đức địa.5-Đại luân oai tạng minh đức địa. 6-Hư không nội thanh tịnh vô cấu viêm quang khai tướng địa.7-Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa.8-Phổ thông trí tạng năng tịnh vô cấu biên vô ngại trí thông địa.9-Vô biên đức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa.10-Tỳ Lư Xá Na trí hải tạng địa.
8. Phật Tri kiến: Sự biết và sự thấy của Phật. Phật có đủ Tam Trí: (1)-Nhứt Thiết Trí của hai hàng Thinh Văn và Duyên Giác. (2)- Đạo Chủng Trí của hàng Bồ Tát. (3)-Nhứt Thiết Chủng Trí của Như Lai. Cho nên Như Lai biết tất cả. Như Lai lại có đủ ngũ nhãn: (1)-Nhục Nhãn. (2)-Thiên Nhãn. (3)-Huệ Nhãn. (4)-Pháp Nhãn. (5)-Phật Nhãn. Cho nên ngài thấy tất cả.
9. Phật trí: Trí tuệ của Phật cũng gọi là Phật Trí Tuệ, Phật Huệ, Như Lai Huệ. Theo chữ Phạn có hai nghĩa là: (1)-A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anouttara Samyassambôdhi). (2)-Tát Bát Nhã hay Bát Nhã (prajnâ)[3]
5. Tôi tu và nhận ra Phật Tánh:
Xin tham khảo bài viết “ Tôi đi tìm Giác ngộ phần tiến trình giác ngộ cùng tác giả”. Phật Tánh bị che mờ bởi nghiệp duyên và cái Ngã của mình. Tất cả đều che lấp Phật Tánh nên không nhận ra. Vậy tìm Phật Tánh là tự ta tìm thấy của thân ta mà có Phật Tánh. Thiền quán vô thường duyên khởi vô ngã và khổ, lậu hoặc thì Phật Tánh ló dạng. Hiểu về giác ngộ là hiểu được cái hình tướng mà chưa biết bản thể của nó. Giác ngộ về Tánh Phật. Tức là hiểu được các định luật của vũ trụ của chúng sinh như câu chuyện từ đầu cái kén và con nhộng. Tu đại thừa là lìa bỏ tướng trạng lìa bỏ khái niệm ngôn từ để lộ tính chân thật là Phật Tánh. Tánh giác là cái vô sanh, chân như bất động, như như không thay đổi. Cái biết thứ hai là vô sanh tánh giác là vậy. Tức Tâm tức Phật là Phật Tánh. Chỉ cần lắng đọng thanh tịnh lại thì Phật Tánh lộ diện ra. Tóm lại tu tập để nhận ra Phật Tánh bằng thiền định. Đã định rồi mới quán chiếu, quán chiếu nhiều vấn đề như nhiều công án vậy. Nan đề đầu tiên là vô thường, tại sao vô thường và vô thường là chân lý bất biến. Kế tiếp qua vô ngã, tại sao vô ngã, không có cái tôi thì ai chịu trách nhiệm cho nghiệp lực, ai chứng đắc đi qua bờ bên kia. Quán đến vô sanh pháp nhẫn không sanh không diệt, quán đến năng sở song vong. Quán đến tánh Không của Bát nhã tâm kinh. Quán đến Không đây là không tự tánh, không bám trụ, ngã cũng không mà pháp cũng không. Quán đến Duy thức vạn pháp duy thức là huyễn là ảo là không chấp thật . Rồi quán chiếu đến Phản văn văn tự tánh. Mang cái thấy cái nghe vào trong tâm mình quán chiếu về tự tánh của mình. Kế tiếp quán đến phi không gian phi thời gian vô số lượng. Quán đến hiện tiền như thị của các pháp trã pháp về lại cho pháp không có cái Tôi xen vào. Quán chiếu đến nhất niệm vô minh để đi đến Trí tuệ Bát nhã biến Thức thành Trí. Sự vận hành của con người chúng ta từ các điều quán chiếu vừa kể đi đến Phật Tánh. Tánh của Phật là tánh sáng suốt trong sáng không bị ô nhiễm là tánh giác mênh mông rộng khắp nơi bao trùm khắp nơi. Phật Tánh chỉ có một mà thôi. Phật Tánh của anh và của tôi chỉ là một, chúng ta khác nhau vì Nghiệp và duyên khác nhau. Quán chiếu nhận ra Phật Tánh đồng nghĩa Ngộ đạo. Ngộ đạo là Như thị, là hiện tiền không quá khứ không tương lai và không chấp trước chấp thật chấp giả chấp ngã chấp pháp. Không có Tôi và có người. Không có trụ và cũng không có bám mà buông xã. Hãy tưởng tượng Phật Tánh bao trùm vu trụ này chỉ có một, con người con vật muôn loài, tất cả chỉ khác nhau do duyên và nghiệp. Nó giống như một qui luật vô tướng chi phối hết vũ trụ nầy. Nó giống như một từ trường của trái đất chi phối hết trái đất này. Chúng ta thường cô đọng vào tánh giác là Phật Tánh mà không nghĩ đến sự bao trùm của nó trong vũ trụ. Mọi vật đều vận hành như thể là chúng biết giác sự sinh tồn của chúng. Chúng vận hành mỗi sắc na và cố định để biểu hiện ra hình tướng thay đổi trong khi Phật Tánh do vô tướng và cố định tĩnh lặng như như không sanh diệt. Phật Tánh là Bản thể còn vạn vật là hiện tượng vô thường.
6. Kết luận:
Kể từ khi Đạo sanh bảo tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh và Nhất xiển đề cũng có Phật Tánh nên tu tập sẽ thành Phật. Kinh Đại bát niết bàn giảng sâu rộng về Phật Tánh là tánh Giác thì Đại thừa đòi hỏi phải Tín như Đại thừa khởi tín của Mã sinh giảng kinh. Phật Tánh được nêu ra đến ngày nay bàn cãi sâu rộng nhưng chưa có ai nói rằng mình đã chứng ngộ được Phật Tánh và tu thành Phật. Kinh Đại bát niết bàn Phật bảo cái Chân ngã của con chính là Phật Tánh của con. Chân ngã là cái Tôi chân thật tuyệt đối của chúng ta. Từ đó mới nói là khi đi đầu thai chúng ta mang theo Nghiệp và Phật Tánh của mình. Phật Tánh của anh và của tôi là một, chỉ khác nhau giữa anh và tôi là do duyên và nghiệp khác nhau mà thôi. Qua câu chuyện từ đầu, chúng ta nhận biết rằng vạn vật trong vũ trụ đều có qui luật của sự sinh tồn. Qui luật này chính là Phật Tánh của vạn vật. Chỉ có con người là ngoài cái biết của sự tự sinh tồn còn có ý thức và có cái biết thứ hai, biết về cái biết của ý thức đó, thì gọi là Tánh giác. Nhờ Tánh giác này mà tu tập để thoát khỏi luân hồi. Không một sinh vật nào có tánh giác này để tu tập hết, chỉ có con người có 5 uẩn đầy đủ mới có khả năng tu thành Phật. Phật đây không phải là quả vị Phật mà tu thành Phật Tánh. Tức là vô sở bất tại ở bất cứ nơi nào cũng có hiện diện. Tuệ giác là thiền quán sau khi thiền Định. Kinh Đại bát niết bàn Phật dạy cho cã Nguyên thủy và Đại thừa.Nguyên thủy thì giới định tuệ, tứ niệm xứ, 8 chánh đạo, tứ diệu đế còn Đại thừa thì thường, lạc, ngã, tịnh và chân ngã chính là Phật Tánh. Là Như lai là thân Kim cang bất hoại. Kinh Bát niết bàn này của đại thừa gần giống như kinh Pháp hoa, khác nhiều với Nguyên thủy. Kinh Bát niết bàn kết thúc lúc Phật sắp nhập diệt, Ngài nói các tỳ kheo: Hỡi các tỳ kheo, hãy chánh niệm tỉnh giác, trì giới, định tâm, nhiếp ý, ai tinh tấn trong Pháp và Luật này, sẽ lìa vòng sinh tử, chấm dứt khổ đau.
Tham khảo:
[1] Tính Kham Nhẩn, Tác giả: Thiền sư Suzuki, Tham khảo: Thư viện Hoa sen
[2][3] Phật Tánh, Tác giả: T/S Lâm Như Tạng, Tham khảo: Thư viện Hoa sen
Phổ Tấn
Để lại một bình luận