1.Dẩn nhập
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
2.Thành tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác
– Không không gian, thời gian: Niết Bàn không ở hướng nào hết, dù là hướng đông, nam, tây, bắc, hướng trên, hướng dưới, hay hướng ngang; Niết Bàn không là quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải được sanh lên, không phải không được sanh lên, không phải sẽ được làm cho sanh lên; Niết Bàn là không có vật đối chiếu, không thể bằng ví dụ, hoặc bằng lý lẽ, hoặc bằng nguyên nhân, hoặc bằng suy luận để chỉ ra hình thể, hay vị trí, hay tuổi thọ, hay kích thước của Niết Bàn; Niết Bàn là thuần lạc, không bị xen lẫn khổ…
– Không số lượng: .”Người trí thấy trực tiếp, kinh nghiệm tức khắc Niết Bàn. Nghĩa là, không ngăn cách bởi không gian tới cõi Phật Tây Phương hay Đông Phương, không ngăn cách bởi thời gian quá hiện vị lai. Nghĩa là, bất kỳ những gì có hạn lượng đều không phải Niết Bàn.
– Niết bàn không phải là Thức: Tức là, Niết Bàn là nơi thức không an trú vào đâu. Trích Kinh SN 12.64, bản dịch Thầy Minh Châu:”Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai.” (Trong Trường Bộ, nơi Kinh DN 11, Đức Phật nói rằng đó chính là một thức vô biên, không thể thấy. Như thế, chữ “thức” có vẻ như có hai nghĩa, “một thức diệt tận” và “một thức biến thông hết thảy xứ”…
-Niết bàn là Tâm, tức tâm tức Phật, là bản tâm: Như thế, thuần túy là hoạt động của thân và tâm. Như thế, lời dạy Đức Phật (qua lời ngài Xá Lợi Phất) rất minh bạch: Niết Bàn không thể có ở đâu ngoài các hoạt động của thân và tâm, và khi thân này lìa đời sẽ là một bước (chữ “bước” — nghe cũng không ổn) để từ Niết Bàn hữu dư sang Niết Bàn vô dư, nếu chúng ta hoàn tất con đường giới-định-huệ của Bát Chánh Đạo. Đức Phật nói rằng Niết Bàn không phải là chuyện trên mây, hay chuyện bên kia núi. Niết Bàn là cái phi thời gian (không bị hạn lượng trong thời gian), là cái thiết thực, là cái thấy được trực tiếp ngay ở khoảnh khắc kinh nghiệm được. Kinh AN 3.55 ghi lời Đức Phật, qua bản dịch Thầy Minh Châu, cho thấy Niết Bàn hiển lộ ngay khi tham sân si biến mất:”
– Niết bàn là Tánh Không: Sự tương tục của chấp ngã và chấp pháp tạm thời bị cắt đứt. Chính đây là trạng thái vô ngã, vô pháp. Chính đây là trạng thái tánh Không, mà ở nơi tâm thức thì gọi là tâm Không. Chính đây là cánh cửa mở vào không gian giải thoát.” Chính ngay khi nhìn vào khoảng niệm trước đã diệt và niệm sau chưa sanh, là sự tỉnh thức thuần túy, không hề có một nỗ lực cố gắng nào, vì tất cả nỗ lực cố gắng đều làm mất cái nhìn khoảnh khắc đó. Khi bạn nhìn như thế, tất cả tham sân si khi khởi lên sẽ tự nhiên biến mất vào bầu trời chiếu diệu của bản tâm. Đó là nơi của tịch lặng, nơi không lời để nói, nơi hoàn toàn rỗng rang của tánh không và tỉnh thức. Giữa hai niệm luôn luôn là tâm ban đầu. Bạn sẽ thấy nơi đây cũng là một thức tịch diệt, cũng là một thức không an trú vào nơi đâu; ngay nơi đây, lìa cả Hữu và Vô, không phải là Vô Tâm cũng không là Hữu Tâm. Và là nơi vắng bặt tham sân si. Chỉ trong cái nhìn này mới thấy thể tánh tham sân si cũng là tánh không, cũng là Niết Bàn. Nơi cái nhìn này mới hiểu được Kinh A Di Đà Sớ Sao: vượt khỏi ba kỳ trong một niệm. Đây chính là một pháp rất mực tiện dụng của Thiền Tông vậy.
3. Thuyết Big bang của Stephen Hawking
Thuyết Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng và được cộng đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nó đưa ra cách giải thích hoàn thiện về nhiều loại hiện tượng quan sát thấy trong vũ trụ, bao gồm sự có mặt của những nguyên tố nhẹ, bức xạ nền vi sóng vũ trụ, cấu trúc vĩ mô của vũ trụ, và định luật Hubble đối với siêu tân tinh loại Ia. Những ý tưởng chính trong Vụ Nổ Lớn—sự giãn nở của vũ trụ, trạng thái cực nóng lúc sơ khai, sự hình thành của heli, và sự hình thành các thiên hà— được suy luận ra từ những quan sát này và những quan sát khác độc lập với mọi mô hình vũ trụ học. Các nhà vật lý biết rằng khoảng cách giữa các đám thiên hà đang tăng lên, và họ lập luận rằng mọi thứ đã phải ở gần nhau hơn khi trở về quá khứ. Ý tưởng này đã được xem xét một cách chi tiết khi quay ngược trở lại thời gian đến thời điểm vật chất có mật độ và nhiệt độ cực cao, và những máy gia tốc hạt lớn đã được xây dựng nhằm thực hiện các thí nghiệm gần giống với thời điểm sơ khai, mang lại kết quả thúc đẩy phát triển cho mô hình. Mặt khác, những máy gia tốc chỉ có mức năng lượng bắn phá hạt giới hạn để có thể nghiên cứu miền năng lượng cao của các hạt cơ bản. Có rất ít manh mối về thời điểm sớm nhất sau sự giãn nở. Do đó, lý thuyết Vụ Nổ Lớn không thể và không cung cấp bất kỳ cách giải thích hay miêu tả nào về điểm khởi nguyên này; thay vào đó nó miêu tả và giải thích sự tiến hóa chung của vũ trụ sau thời điểm lạm phát.
Công bố nghiên cứu cuối cùng của nhà vật lý Stephen Hawking
Công trình khoa học cuối cùng của nhà vật lý quá cố Stephen Hawking vừa được các đồng nghiệp của ông công bố. Mục đích của nghiên cứu là để biết được những gì sẽ xảy ra với thông tin khi các vật thể rơi vào hố đen vũ trụ.
Công bố nghiên cứu cuối cùng của nhà vật lý Stephen Hawking
Nhà vật lý xuất sắc Stephen Hawking qua đời hồi tháng 3 năm nay. Công trình này nhằm giải quyết một vấn đề mà các nhà vật lý ký thuyết gọi là “nghịch lý thông tin. Nó được hoàn thành chỉ vào vài ngày trước khi Hawking qua đời hồi tháng 3. Hiện tại, toàn bộ nghiên cứu đang được viết lại bởi các đồng nghiệp của ông ở 2 trường ĐH Cambridge và ĐH Harvard, đồng thời đăng tải online.
Giáo sư vật lý lý thuyết Malcolm Perry của ĐH Cambridge, đồng tác giả của nghiên cứu có tên là “Black Hole Entropy and Soft Hair” cho biết, “nghịch lý thông tin” là mối quan tâm lớn nhất của Hawking trong suốt 40 năm qua. Nguồn gốc của vấn đề có thể truy lại thời kỳ của Albert Einstein. Năm 1915, Einstein công bố thuyết tương đối tổng quát, trong đó mô tả cách mà lực hấp dẫn sinh ra từ các hiệu ứng uốn cong không-thời gian của vật chất, và vì thế mà các hành tinh quay xung quanh Mặt Trời.
Nhưng lý thuyết của Einstein cũng đưa ra những dự đoán quan trọng về hố đen, đặc biệt là một hố đen có thể được xác định hoàn toàn chỉ bằng 3 đặc tính: khối lượng, điện tích và sự xoay tròn của nó.
Gần 60 năm sau, Hawking đã bổ sung thêm vào ‘bức tranh’. Ông lập luận rằng hố đen cũng có nhiệt độ. Và bởi vì các vật thể nóng bị mất nhiệt vào vũ trụ, nên số phận cuối cùng của một hố đen là bốc hơi mất. Nhưng điều này lại làm nảy sinh một vấn đề. Các quy luật của thế giới lượng tử đòi hỏi thông tin không bao giờ bị mất đi. Vì thế, chuyện gì xảy ra với toàn bộ thông tin chứa trong một vật thể – ví dụ như bản chất các nguyên tử của Mặt Trăng – khi nó rơi vào một hố đen? “Việc khó khăn là nếu bạn ném thứ gì đó vào một hố đen thì nó trông như biến mất” – Perry nói, “Làm thế nào mà các thông tin trong vật thể đó phục hồi được nếu hố đen biến mất?” Trong công trình cuối cùng, Stephen Hawking và các đồng nghiệp đã cho thấy cách mà một số thông tin ít nhất là có thể được khôi phục. Ném một vật thể vào hố đen và nhiệt độ của hố đen phải thay đổi. Vì thế, một đặc tính được gọi là “entropy” – thước đo sự rối loạn bên trong của một vật thể – cũng vậy. Nó sẽ trở nên nóng hơn. Các nhà vật lý, trong đó có Sasha Haco ở ĐH Cambridge và Andrew Strominger ở ĐH Harvard, cho thấy rằng entropy của một hố đen có thể được ghi lại bởi các photon bao quanh đường chân trời của hố đen – điểm mà ánh sáng không thể thoát hỏi lực hấp dẫn cường độ cao. Họ gọi ánh sáng lấp lánh này của photon là “soft hair” (lông mềm). “Việc mà nghiên cứu này làm là cho thấy rằng ‘lông mềm’ có thể giải thích cho entropy” – Perry nói. “Nó nói với bạn rằng ‘lông mềm’ thực sự đang làm đúng việc của mình”. Mặc dù vậy, đó chưa phải là sự kết thúc của nghịch lý thông tin. “Chúng tôi không biết rằng entropy giải thích cho mọi thứ mà bạn có thể ném vào một hố đen, vì thế đó thực sự chỉ là một bước trên cả con đường” – Perry chia sẻ. “Chúng tôi nghĩ rằng đó là một bước đi khá tốt, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm”. Vài ngày trước khi Hawking qua đời, Perry đang ở Harvard nghiên cứu công trình cùng với Strominger. Ông không biết Hawking ốm nặng đến mức nào. Ông đã gọi điện để cập nhật tiến độ cho Hawking. Đó có lẽ là cuộc trao đổi khoa học cuối cùng mà nhà vật lý quá cố đã làm. “Stephen rất khó khăn để giao tiếp và tôi đã phải đeo một chiếc loa để giải thích về việc chúng tôi đã tiến hành đến đâu. Khi tôi giải thích, ông ấy chỉ cười. Tôi nói rằng chúng tôi đã gặt hái được một số thứ. Ông ấy đã biết về kết quả cuối cùng này”. Một trong số những ẩn số mà Perry và các đồng nghiệp phải khám phá bây giờ là cách mà thông tin liên quan đến entropy được lưu trữ trên ‘lông mềm’ và cách mà những thông tin đó ra khỏi hố đen khi nó bốc hơi.“Nếu tôi ném thứ gì đó vào trong, tất cả những thông tin có được lưu trữ ở đường chân trời của lỗ đen hay không?” – Perry đặt câu hỏi. “Đó là vấn đề cần phải tìm ra để giải quyết nghịch lý thông tin. Nếu chỉ có một nửa hay 99% thì chưa đủ – nghĩa là bạn vẫn chưa giải quyết được vấn đề nghịch lý thông tin”. “Chúng tôi có ít câu hỏi cần phải giải hơn trước kia, nhưng chắc chắn là vẫn còn một số vấn đề rắc rối khác”. Marika Taylor, giáo sư vật lý lý thuyết của ĐH Southampton, cũng là cựu sinh viên của Hawking cho biết: “Hiểu được nguồn gốc vi mô của entropy là một trong những thách thức lớn trong 40 năm qua”. Juan Maldacena, nhà vật lý lý thuyết ở Viện Nghiên cứu cao cấp của Princeton nhận xét: “Hawking đã phát hiện ra rằng hố đen có nhiệt độ. Với các vật thể thông thường, chúng ta biết rằng nhiệt độ là do chuyển động của các thành phần vi mô của hệ thống. Ví dụ như nhiệt độ của không khí là do chuyển động của các phân tử: chúng chuyển động càng nhanh thì càng nóng. “Với các hố đen, chưa rõ liệu những thành phần này là gì, hay chúng có liên quan tới đường chân trời của hố đen hay không. Ở một số hệ thống vật lý có các đối xứng đặc biệt, các đặc tính nhiệt có thể được tính toán theo các đối xứng này. Nghiên cứu cho thấy, gần đường chân trời của hố đen, chúng ta có một trong những đối xứng đặc biệt này”. Nguyễn Thảo(Theo Guardian)
Tóm tắt thuyết Hawking là từ một singularity nhỏ nhất hơn một quark như một điểm nên không có không gian gặp năng lượng positive và negative chạm vào nhau gây sự nổ tạo thành vật chất đi qua lổ đen và giản nở ra đi mãi mãi trong vũ trụ. Vũ trụ có 90% là black matter.Nói chung là lý thuyết của Enstein kết hợp với Hawking cho ta một khái niệm về Niết Bàn.
4. Tiến trình giác ngộ của đức Phật
Dưới cội bồ đề đức Phật ngồi thiền định theo Như lai Thiền đạt được giác ngộ sau 49 ngày. Nhưng lúc ấy Ngài vẩn chưa là chánh đẳng chánh giác. Ngài đạt đựơc định nên có được một tâm thanh tịnh tuyệt đối, trong sáng, sáng suốt nên Ngài mang tâm ấy đi xuyên suốt ba cái minh như sau: minh về các tiền kiếp của chính mình đó là quay về quá khứ thời gian nào mình tên gì ở đâu làm nghề gì là người hay là sinh vật, thọ mạng là gì? Tức là đi xuyên suốt bao ngàn kiếp trước trong quá khứ của Ngài. Vấn đề đặt ra là làm sao Ngài nhìn được cái minh này? Enstein bảo nếu ta đi được bằng tốc độ ánh sáng thì sẽ không còn có thời gian: thu lại zero. Như vậy đức Phật đã đi, dùng cái gì bằng tốc độ gần bằng ánh sáng nên Ngài mới đạt được cái minh này, đó là tốc độ của tư tưởng: niệm. Bằng một niệm Phật dạy rằng chúng ta có thể đi về cõi Tịnh Độ ở Tây Phương cách ta hằng vạn ức tức là hằng vạn vạn lần dậm. Tốc độ của tư tưởng được chứng minh bằng các hiện tượng đơn giản như người con chết ở Mỹ bà mẹ ở việt nam cách xa hằng vạn dậm đang cầm chén cơm rớt xuống ngay tức thời do tư tưởng tâm thức người con về báo. Tốc độ tư tưởng được xác định qua sinh lý học physiology, cơ cấu tư tưởng(mind) là sự dẩn truyền hệ thần kinh từ thân thể đến võ bán cầu não bộ. Đó là sự dẩn truyền làng sóng điện từ bởi các neuron thần kinh. Sự vận hành điện từ này có từ lúc đứa bé chào đời với hơn 1.2 tỷ neuron thần kinh của cơ thể được thành lập. Năng lượng điện từ này được giải thích do các Ion mineral của dung dịch nước trong cơ thể từ lúc là bào thai. Các ion này vận hành được do từ trường của trái đất tạo thành lực điện từ. Qua các synapse neuron thần kinh liên kết nhau, đưa đến não bộ để tạo ra cái biết (giác) thành hình. Nó có hình dạng làn sóng hình Sin trong võ bán cầu não. Thiền định là tập trung năng lượng tối đa của võ não không cho năng lượng này phân tán đi khắp cơ thể. Người ta đã chứng minh được lúc thiền Định thì làn sóng điện từ hình Sin trở thành nằm ngang. Hành giả có thể điều hành năng lượng này để đi về nơi nào họ muốn: niệm với tốc độ gần bằng ánh sáng, nên có thể thu lại thời gian bằng zero. Đó là lý do giải thích được đức Phật đạt được cái minh thứ nhất và thứ hai. Có thể Ngài dùng Niệm để quay về lúc khởi đầu của kiếp người: bản lai diện mục. Hành giã tu đạo Phật luôn tìm cách quay về lúc chưa được sanh ra như một niệm chưa được sinh ra, của quan điểm Niết bàn như đã dẫn chứng trên. Vì quay về quá khứ đến tột cùng là điểm bản lai diện mục nên không còn có thời gian nữa. Và như vậy sẽ không còn có không gian và số lượng. Áp dụng vào thuyết Big bang thì hành giả đi về nơi khởi đầu của vũ trụ là một điểm cực nhỏ: singulary hình thành do năng lượng positive và negative trong vũ trụ tạo sự bùng nổ thành vật chất. Chúng ta có thể hiểu được đức Phật nhìn lại kiếp trước của mình bằng thiền định, bằng tư tưởng một niệm bằng sự vận chuyển năng lượng của tư tưởng trở về thời gian thu tóm lại là zero. Cái minh thứ hai của đức Phật là áp dụng nhìn được kiếp trước của chúng sinh ngoài thân thể của chính mình. Từ ngày đó đến giờ chưa thấy có vị tổ hay a la hán nào có cái minh này của đức Phật. Cái minh thứ ba là tận diệt lậu hoặc phiền não. Lậu hoặc là do nghiệp tích luỹ hàng ngàn kiếp trong A lại da thức, ô nhiễm như chất nước dơ bẩn rò rỉ nên gọi là lậu hoặc. Tận diệt lậu hoặc bằng thiền định như Thất bồ đề phần, thất giác chi, tánh giác. Dùng thiền định để biết được kiếp trước của mình và người thì cũng chính dùng thiền định, một niệm để biết được lậu hoặc của chính mình mà tận diệt nó là điều có lý (logical). Chỉ khi nào biết được lậu hoặc, tận gốc rễ nên tận diệt nó mà thôi. Lậu hoặc tạo ra tham sân si hiện hành thân khẩu ý tạo nghiệp, chính nhờ cái minh sáng suốt mà đức phật nhìn được nghiệp của mình và tận diệt nên người mới bảo là kiếp này là kiếp cuối cùng của ta, không còn sinh tử luân hồi nữa.
5. Sự sống và chết theo Phật giáo (Thích thiện Châu)
Sự chết và vị A La Hán
Sự chết và sự tái sinh theo nhau một cách tương tục khi mà các chúng sinh bị chìm đắm trong sự lầm lạc khiến họ hành động theo sự điều động của vị kỷ và của sự ràng buộc vào cuộc sống. Trái lại, người ta loại trừ vô minh thì những hành động vị kỷ sẽ không còn sản sinh nữa. Chúng không bị ràng buộc vào những đối tượng dục lạc và quá trình sống bị gián đoạn. Vị làm dứt bặt mọi ràng buộc được gọi là A la hán (không tái sinh, Arahant). Ðức Phật cũng là A la hán về mặt giải thoát. Trường hợp một vị A la hán tiếp tục sống trong đời này dù các ái dục của ngài đã được đoạn trừ có thể được so sánh với hoạt động của một cái quạt máy: dòng điện đã bị ngắt, nhưng quạt vẫn quay nhờ vào vận tốc đã đạt được. Sự chết của vị ấy là sự ngưng những quá trình tâm vật lý của sự sống, và đồng thời nó là sự giái thoát toàn bộ và là sự an lạc vô lượng không thể miêu tả được. Vị A la hán không thuộc bất cứ loại chúng sinh nào cả (Cf, An, II, 38). Do vì chư vị A la hán không còn tạo ra những hành động vị kỷ (nghiệp, karma), nên chư vị không còn xuất hiện trong bất cứ khung trật nào nữa cả (Sun, 499). Không có câu trả lời dứt khoát nào cho câu hỏi về số phận của vị A la hán sau khi chết : “Như những tia sáng từ lò phát ra lần lượt tắt đi.
Và người ta không biết chúng đi đâu.
Cũng vậy, vị đã được giải thoát hoàn toàn
Ðã vươn qua dòng khát ái,
Ðã vào trong tịch lặng,
Thì không để lại dấu vết”.
Kinh Trung bộ (Majjhimanikaya) 72 cũng kể một cuộc bàn luận giữa đức Phật và Vaccha, một ẩn sĩ lang thang, về chủ đề sau đây :
– Thưa Gotama (Cù Ðàm), một tu sĩ được giải thoát tái sinh về đâu (Vaccha muốn nói đến một vị A la hán).
– Này Vaccha, bảo rằng vị ấy tái sinh thì như thế là không đúng.
– Thế thì, thưa Gotama, vị ấy không tái sinh ư?
– Này Vaccha, bảo rằng vị ấy không tái sinh, điều ấy không đúng.
– Thế thì, thưa Gotama, vị ấy tái sinh và không tái sinh?
– Này Vaccha, bảo rằng vị ấy tái sinh và không tái sinh, điều ấy không đúng.
– Thế thì, thưa Gotama, vị ấy không tái sinh và cũng không không tái sinh?
– Này Vaccha, bảo rằng vị ấy không tái sinh và không không tái sinh, điều ấy không đúng.
Nghe những câu trả lời của đức Phật, Vaccha lấy làm bối rối và không còn tin những gì đức Phật đã dạy ông trước kia. Và đức Phật, sau khi xác nhận rằng học thuyết này rất khó hiểu đối với Vaccha, cố minh họa cho ông về học thuyết này bằng cách đặt cho ông những câu hỏi :
– Này Vaccha, giả như có một ngọn lửa than trước mặt ông, ông có biết rằng nó đang cháy trước mặt ông không?
– Thưa Goatama, nếu có một ngọn lửa than trước mặt tôi, tôi biết ngọn lửa cháy trước mặt tôi.
– Nhưng này Vaccha, nếu như ngọn lửa trước mặt ông tắt đi, ông biết ngọn lửa trước mặt ông tắt không?
– Thưa Gotama, nếu ngọn lửa trước mặt tôi tắt, tôi biết ngọn lửa trước mặt tôi tắt.
– Nhưng này Vaccha, nếu có ai hỏi ông : “Ngọn lửa đã đi về hướng nào, đông, tây, nam hay bắc ?” thì ông trả lời thế nào?
– Thưa Gotama, câu hỏi này không thích ứng với trường hợp này. Vì ngọn lửa tùy thuộc vào sự cháy của cỏ và của gỗ. Chỉ khi nào không còn nhiên liệu nữa thì ngọn lửa mới tắt đi.
– Ðúng thế, ở đây cũng vậy, này Vaccha, tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức một khi bị từ bỏ, bị nhổ bật, bị chặt đứt như cây tala thì chúng sẽ tắt diệt đi không còn có thể mọc lên lại sau này nữa. Này Vaccha, một vị đã giải thoát ra khỏi những gì được gồm thành năm uẩn thì sâu xa, rộng lớn như biển. Do đó, bảo rằng vị ấy tái sinh, rằng vị ấy không tái sinh, rằng vị ấy tái sinh và không tái sinh, rằng vị ấy vừa không tái sinh vừa không không tái sinh, tất cả đều không đúng hợp. Cho nên không thể bảo rằng một vị đã giải thoát tái sinh, vì tất cả những phiền não tạo thành sự tái sinh đã bị loại trừ. Và cũng không thể bảo rằng một vị đã giải thoát thì bị đoạn diệt vì không cò ai để bị đoạn diệt. Rõ ràng rằng đức Phật đã giảng rất ít về Niết bàn và sự nhập Niết bàn, về sự hiện hữu cực lạc của những vị đã giải thoát. Tuy nhiên, một tuyên thuyết nổi danh của ngài trong kinh Udâna VIII, bốn quả thực rất quan trọng về lĩnh vực của tuyệt đối: “Này các tỳ kheo, có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi. Này các tỳ kheo, nếu không có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi, thì sẽ không có sự giải thoát đối với cái được sinh ra, được lập thành, được tạo tác, được làm nên. Nhưng, này các tỳ kheo, vì có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi, mới có sự giải thoát đối với cái được sinh ra, được lập thành, được tạo tác, được làm nên. Ðiều này quả thực là sự chấm dứt của khổ”. Cái bất sở sinh (bất sinh) là cái tuyệt đối vô ngã, mà người ta không thể tìm kiếm bằng bất cứ một phương thức hợp lý nào hoặc diễn tả bằng một ngôn ngữ không tương xứng của con người, vì nói đến chính cái tuyệt là một điều hoàn toàn vô nghĩa.
Tóm lại, học thuyết Phật giáo về sự sống và sự chết vừa có tính cách luận lý vừa có tính cách vi diệu. Ðiều ấy muốn nói rằng, người ta có thể hiểu nó bằng tri thức, nhưng chỉ bằng trí tuệ người ta mới có thể thâm nhập vào nó, thể chứng nó được.
6. Luận về Niết bàn
Loại đầu tiên là “niết-bàn có phần-còn-dư” (hoặc là hữu-dư niết-bàn). Loại nầy được so sánh với những mảnh-vụn than-củi hãy còn cháy sau khi dập-tắt ngọn lửa, và điều nầy diễn-tả một người đã giác-ngộ, hoặc là một vị A La Hán. Vị A La Hán hãy còn nhận biết sự vui-thú, và sự đau-đớn, tuy nhiên ông ta (hoặc bà ta) không còn bị trói buộc bởi các điều nầy. Loại thứ nhì là đại-niết-bàn, đó là niết-bàn sau-cùng, hoặc là niết-bàn hoàn-toàn (niết-bàn không có phần-còn-dư, hoặc vô-dư niết-bàn), đó là “đã đi-vào” niết-bàn, sau khi chết. Bấy giờ, những mảnh-vụn than-củi thì đã nguội-mát. Đức Phật đã dạy rằng, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái có-mặt thì không đúng, bởi vì khi nói có-mặt có nghĩa là bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, thế nên, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái không-có-mặt cũng không đúng.
Nếu có ai dạy Niết bàn là chấm dứt, hãy nói rằng họ đã dối lừa. Nếu có ai dạy Niết Bàn đang sống đó, hãy nói rằng họ đã sai lầm. Không biết điều này. Về phương diện siêu hình Niết Bàn là sự giải thoát khỏi khổ đau. Về phương diện tâm lý, Niết Bàn là tiêu diệt lòng ích kỷ. Về phương diện đạo đức, Niết Bàn là diệt bỏ tham sân si. Niết Bàn như được miêu tả trên đây là một đạo quả, chứ không phải là không gian vật lý, hay dạng tồn tại bản thể nào. Nó là trạng thái tinh thần mà bằng trí tuệ rốt ráo con người đạt được, là sự thành tựu tối thượng của sự chuyển hóa của nhận thức. Vậy trong trạng thái Niết Bàn, trong trạng thái đã tận diệt tham sân si, đã chấm dứt luân hồi, đã diệt bỏ vô minh và ái dục, con người sống như thế nào? Muốn đạt đến Niết Bàn trước hết và trên hết phải lắng đọng mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Phải dứt bỏ mọi sự quyến luyến dính mắc vào các dạng cảm thọ, các khoái cảm giác quan do vô minh đưa lại. Phải tiến hành thiền định (Dhyana) . Thiền định là con đường đưa con người vào Niết Bàn giải thoát. Trong trạng thái thiền định con người thấy rõ chân bản của thế giới. Thế giới muôn sai ngàn khác, với các sự vật hiện tượng khác nhau ở hình tướng, nhưng đồng nhất với nhau ở mặt bản thể. Tất cả đều vô thường, vô ngã. Nhận chân được bản thể của vũ trụ như vậy, con người phát khởi đại trí, đại bi. Con người phút chốc bừng nở tình thương vô hạn đối với muôn loài muôn vật. Tất cả đều là một, chỉ vì tri kiến sai lầm nên con người mới tham sân si, mới hành động tạo nghiệp để thỏa mãn và nâng cao cái ngã vốn vô ngã. Với tuệ giác do thiền định đưa lại, ranh giới ta và người, ta và tha nhân, ta và chúng sinh, người và vật biến mất, tình thương vô hạn, tình yêu vô biên vô biên giới và nhân giới bừng nở, dâng tràn. Tuệ giác đưa con người vào mát lành, hạnh phúc, an lạc. Kết luận khi gom tụ các yếu tố trên, chúng ta nhìn ra được tu đạo phật dùng thiền định và chỉ có thiền định mới gom tụ lại được năng lượng của tư tưởng mà vận hành chứng đắc ngộ đạo đạt niết bàn. Có phải chính Stephen hawking đã dùng tư tưởng thiền định của chính mình mà khám phá ra được thuyết big bang và nguyên nhân thành lập vũ trụ giản nở không ngừng nghỉ? Đến ngày nay giải nobel năm 2020 cho 3 khoa học gia vật lý học, chứng minh sự hiện hữu của Lỗ đen Black hole theo thuyết big bang. Chúng ta cũng suy tư trong không gian giản nở như vậy, thì phải có một cõi nào đó trong không gian vô tận, trong lỗ đen đó hay không? có một định vị cõi niết bàn hay cõi tịnh độ? Thuyết Enstein về mass and energy conversion thì vật chất và năng lượng không bao giờ bị tiêu diệt mà chỉ biến đổi trạng thái mà thôi. Thì cái sống chết của con người là một luân hồi mãi mãi. Nhưng cũng công nhận có một energy sau khi chúng ta chết. Energy nầy Phật giáo gọi là tâm thức hay dân gian gọi là linh hồn, vậy nếu ta dùng tư tưởng thiền định điều khiển energy này sau khi diệt tận lậu hoặc, chuyển sự vận hành nó về một năng lượng: vô sở bất tại, chỗ nào cũng có hiện hữu, thì đó chính là cõi niết bàn, cõi tịnh độ? Đức Phật cũng giống như chúng ta cũng là con người, ngài dùng thiền định mà đắc đạo cũng như ngài đạt được một chương trình (programmer) trong não bộ của người. Với programmer nầy ngài có thể sáng suốt nhìn ra thật tướng các pháp, trong đó có con người chúng ta và tìm ra được cội nguồn của vạn pháp, xóa được không gian thời gian số lượng là ý thức phân biệt của con người, xóa được vô ngã vô pháp không chấp vào bất cứ cái gì đó là tánh giác. Qua câu chuyện Bahiya cũng như một đêm mà Ma ha ca Diếp giúp cho Ananda ngộ được đạo, đạt tánh giác là câu: không là với đó, không là ở trong đó, không ở nơi này nơi kia và ở chặng giữa tức là không có không gian, cũng như Ananda nghiên mình để nằm xuống thì ngộ được tánh giác tức là không nằm không ngồi không ở giữa không đứng không đi không thức không ngủ Tánh giác ngộ được đạo là như vậy đó, không còn ý thức của sự phân biệt. Nó giống như một trực giác trực nhận mà ta hiểu bởi sự hoạt động tâm lý ra ngoài ý thức và tiềm thức. Trực giác là sự vận hành của vô thức không thông qua ý thức.
Enstein cũng thường cho rằng trong vũ trụ có nhiều hệ (system), như hệ chúng ta đang ở trên trái đất thì con người chúng ta thấy nghe sờ xúc cảm có nhưng cũng giới hạn trong một khung (range) nào đó như mắt không nhìn được ánh sáng hồng ngoại mà con dơi nhìn được trong bóng tối, tai không nghe được tần số sóng âm thấp hay quá cao. Và chúng ta chỉ nhìn thấy khi có ánh sáng mặt trời. Vậy cõi nào đó ở hệ (system) nào đó là có thể có được (logical). Vì ngày nay chứng minh có lỗ đen black hole thì cõi nào đó để tập trung energy về cõi đó cũng là có thể được (logical). Tại sao đức Phật bảo nghiệp lực vận chuyển tâm thức đi về đầu thai? Như vậy tâm thức là energy một năng lượng vận hành theo nghiệp lực tức là có sức hút, vậy sức hút về một cõi nào đó cũng có thể có vì sức hút do tần số năng lượng do khác biệt điện tích negative và positive. Giải thích cái chết của một A la hán như dẫn chứng trên cũng có thể hiểu được theo ý niệm này. Có nghĩa nếu chúng sinh vô minh thì nghiệp lực kéo đi đầu thai, còn A la hán hết vô minh thì không còn nghiệp lực nhưng theo qui luật mass and energy conversion thì A la hán vẫn còn có energy của tâm thức, và nergy này không đi đầu thai thì nó sẽ đi về đâu? Phải có còn lực hút để đi về một cõi nào chứ? Tuy hết nghiệp lực nhưng năng lượng đó không thể mất đi tiêu diệt đi được vì nguyên tắc bảo tồn năng lượng Enstein thì nó không bị triệt tiêu vậy năng lượng đó đi về đâu? Ngọn lửa tắt đi về đâu? Theo Enstein nó biến thành năng lượng là nhiệt lượng hòa nhập với nhiệt lượng chung quanh ngọn lửa đó, vậy nó là Vô sở bất tại: ở đâu cũng đều có mặt. Tóm lại, mặc dầu có rất nhiều thuyết cho rằng niết bàn không là một cõi nào trong không gian, và đức Phật rất ít nói về cõi niết bàn, nhưng bản thân chúng tôi nhận ra một kết luận: khi giác ngộ hành giả dùng niệm mà đi đến không còn có không gian thời gian số lượng , năng sở vô song có nghĩa là cái của tôi và cái đối tượng của tôi không còn tồn tại, và ngộ đạo. Như vậy khi họ giác ngộ mà chết thì năng lượng đó không bị triệt tiêu và cũng không còn nghiệp lực. Vậy chúng ta nhận ra rằng có một cõi nào đó trong không gian vô cùng tận này chứa đựng một năng lượng của tâm thức cho họ, một cõi niết bàn hay tịnh độ. Một cõi vĩnh hằng như các tôn giáo khác. Một nhà vật lý học có đưa ra rằng chúng ta là xuất phát từ một hành tinh xa xôi nào đó trong vũ trụ vi phạm lỗi (có lẽ tham sân si ) mà bị đọa xuống trái đất này thi hành hình phạt, để rồi tu tập hướng thiện chết sẽ về lại hành tinh đó, còn nếu không tu tập hướng thiện thì sẽ luân hồi mãi mãi trên trái đất này. Nhà vật lý này khảo sát DNA của tất cả các loại sinh vật trên trái đất nghiệm ra rằng chỉ có con người là có hơn 20 DNA gốc khác với tất cả mọi loại khác. Khi xưa bà la môn hỏi đức Phật chết rồi đi về đâu? Phật không trả lời, mãi sau này bồ tác Long Thọ mới đưa ra Trung quán luận giải thích: 8 bất: không đến không đi, không đoạn không thường, không sanh không diệt, không một không hai. Như vậy Phật là Vô sở bất tại: ở đâu cũng có Phật. Khi giác ngộ Phật có bảo rằng kiếp nầy là kiếp sau cùng của Ngài không còn đầu thai tiếp, vậy Phật đi đâu? Chỉ có các Bồ tác vì nguyện lực nên còn ở lại cõi dục giới này mà thôi. Enstein bảo vũ trụ có nhiều hệ system khác nhau vậy có cõi Niết bàn, Tịnh Độ là có lý. Vì vũ trụ 90% là black matter. Kinh Hoa nghiêm dạy rằng Nhất thiếc duy tâm tạo, một là tất cả tất cả qui về một, một đây có phải là Singularity của Big bang? Và Tâm là gì? Đó là tâm thức là năng lượng, như vậy tâm ta năng lượng ta đi về cõi nào đó ta mong cầu? Vì năng lượng đó không bao giờ bị triệt tiêu.
Tham khảo: Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Wikipedia, Nguyên Thảo, Thích trí Siêu, Thích thiện Châu. Thư viên Hoa sen.
Cư sĩ Phổ Tấn
Để lại một bình luận
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.