Nhân ngày Phật Đản Sanh tôi tìm thấy tôi trong Phật. Khi tôi ngồi thiền định tôi nhìn thấy tượng Phật trước mắt và thiền đưa đến tôi tìm thấy tôi trong tượng Phật đó.
Tại sao vậy? Có lẽ tôi tưởng tượng vọng niệm nên thiền định dạy rằng khi thiền gặp tổ giết tổ, gặp Phật giết Phật vì tổ Phật đây là ma cảnh là vọng tưởng là vọng niệm. Ma cảnh này do lòng mong cầu của tôi dâng lên cao quá nên tôi đã tưởng tượng tôi là Phật, trí tuệ tôi đang có là tuệ giác của Phật. Cũng có thể nói đó cái ngã của tôi quá cao, nên tôi nghĩ rằng bấy lâu nay tôi thiền đạt tánh giác mà kiến tánh giác thì thành Phật. Tôi nghĩ đến câu tức tâm tức Phật thì tâm tôi bây giờ là Phật rồi thì tôi thành Phật. Tôi đâu hiểu rằng tức là có duyên trong chữ tức đó. Tâm do duyên là chân tâm thì làm duyên là tâm Phật. Vậy kinh bảo chúng sanh đều có Phật tánh và tu tập sẽ thành Phật là sao? Tôi tìm thấy tôi trong Phật và tôi tìm thấy Phật trong tôi.
Phật tánh là gì? Phật tánh là tánh giác, vậy giác là biết cái gì? Các nhà vật lý vũ trụ đều nhận thấy trong vũ trụ tất cả đều được thành lập với một cái tánh chất rất đặc biệt là tự nó biết cách nó sinh tồn không bị tiêu diệt. Ngay cả trái đất nó biết cách xoay quanh chính nó và chung quanh mặt trời với một quỷ đạo vận tốc không bao giờ thay đổi. Nó có một vòng khí quyển để tiêu diệt tất cả vật ngoài không gian rơi vào trái đất thì tiêu huỷ cháy tan thành tro bụi để nó sinh tồn. Đó là vật vô tình rồi đến vật hữu tình cũng vậy, khoa học gọi đó là bản năng sinh tồn của muôn loài vật, bản năng làm cho ta nghĩ đến cho nó có cái biết của chúng là biết tự bảo vệ lấy chính nó. Biết đó là Phật tánh, là tánh giác của muôn loài vật. Tánh giác đó ở nơi con người thì gọi là giác tri biết của ý thức. Con người biết cách bảo vệ sự sinh tồn của chính mình và bản thân cơ thể mình cũng tự bảo vệ chính nó. Giác đó là cái giác của ý thức. Nhưng Phật dạy rằng chỉ có con người và chư thiên cõi trời mới tu thành Phật vì họ có tánh giác thứ hai là giác là biết mình biết điều đó, điều bản năng sinh tồn. Chính cái biết thứ hai này làm ta đạt ngộ đạo biết tu tập tự mình giải thoát sự sinh tử luân hồi và tánh giác ngộ đạo đây là Phật tánh. Riêng con người có hai cái biết nên phân loại là biết lần đầu là thức biết còn cái biết lần thứ hai gọi là trí biết.Thiền tông bảo là muốn có cái biết thứ hai thì cái biết thứ nhất phải thu nhỏ lại thành triệt tiêu. Bấy giờ gọi là trực giác trực nhận cái biết của thức biến thành trí là vậy. Ta học tập đến tiến sĩ hay gì gì đi nữa cũng là thức biết chưa là trí biết.
Đạo Phật khác với mọi tôn giáo trên thế giới là đạo Phật có đôi cánh từ bi và tuệ giác. Tất cả tôn giáo chỉ có love là từ bi mà thôi. Riêng đạo Phật còn có tuệ giác là wisdom. Tuệ giác là biết cái gì? Đầu tiên là biết Tứ diệu đế Bát chánh đạo, kế đến là biết sự luân hồi 12 nhân duyên. Tôn giáo khác cho là chết là về nơi cõi vô tướng thiên đàng hay địa ngục, Phật dạy về đó chưa đủ mà phải quay lại sinh ra 6 nẻo luân hồi: trời người A tu la súc sanh ngã quỹ. Như vậy mới giải đáp được nếu hàng triệu năm loài người chết đi về thượng đế thì có quá nhiều linh hồn ở với thượng đế nhiều hơn cả loài người đang sống gấp trăm lần. Phật dạy là con người chết về một cõi vô tướng, để rồi quay lại sinh ra làm người luân hồi do duyên nghiệp và nguyện hạnh mà dẫn đi đầu thai. Cõi vô tướng đó là A lại da thức theo duy thức học, chứa đựng nghiệp lực và nguyện lực cũng như tu tập lực. Chủng tử có từ bao nhiêu kiếp chồng chất trong Tàng thức nầy muôn đời kiếp tạo thành từng tầng năng lượng có sức hút vào bào thai mà thành người hay súc sinh. Dĩ nhiên sức hút đó khi có do đồng bộ một tần số và cường độ vận tốc nếu năng lượng đó được diễn tả như là một năng lượng điện tử. Khoa vật lý lượng tử ngày nay giải thích tất cả vật chất và năng lương trong vũ trụ. Chúng ta không thể tin rằng chết là chấm dứt là hết vì Einsten nói không có một vật chất gì mà tự nó bị tiêu diệt hết. Nó chỉ là chuyển dạng trạng thái từ mass thành energy mà thôi (mass and energy conversion). Như vậy chết của loài người thì chuyển thành năng lượng, nếu theo tôn giáo thì năng lượng là vong linh là linh hồn là tâm thức sẽ đi về cõi chúa Thiên đàng, riêng Phật thì nếu tu thành chánh quả thì đề về cõi Niết bàn. Nếu theo Tịnh độ Phật Di Đà thì về cõi Tịnh độ, và nếu không tu hành gì hết hay tu chưa đủ sẽ trở về đầu thai do nghiệp nguyện dẫn đi.
Thân tan rã chỉ còn tâm thức thì có tu tập giác ngộ không? Vấn đề đặt ra là khi ta chết tức là uẩn sắc tan rã thì còn lại 4 uẩn kia là tâm thức của ta thành dạng năng lượng. Dạng năng lượng này còn tu tập được không? Muốn tu tập là có tánh giác mà giác là biết thì phải nhờ vào căn ý mới đạt được cái giác. Căn ý đó chính là não bộ của chúng ta là sắc, mà sắc đã chết rồi thì lấy đâu mà thiền định giác ngộ được. Như vậy khi là tâm thức thì không tu tập thiền định không giác gì được nữa sao? Có khi nào chỉ còn là tâm thức mà còn tu tập giác biết được nữa không? Mọi người giải thích là tánh giác còn có trong tàng thức và như vậy dù chết rồi vẫn tu tập thiền, biết và hiểu tánh giác được. Chính vì thế nên giải thích là về cõi tịnh độ để nghe Phật Di Đà giảng tu tập tiếp. Chính vì giải thích thế nên khi chết rồi làm lễ thì đọc kinh Phật hay khai thị cho người chết vì họ vịn vào 6 căn của người thân để nghe và biết qua 6 căn ấy. Nhờ 6 căn người thân mà vong linh nghe hiểu và sáng suốt thiền định tu tập được? Chính vì thế nên có cõi trời, chư thiên có thể nghe kinh Phật mà tu tập được thành Phật. Chính vì thế nên Phật lên cõi trời giảng cho mẹ ruột của mình, chết khi ngài sinh ra ít lâu, tu tập hiểu được kinh Phật là kinh Vi diệu Pháp. Vấn để này rất nhại cảm vì nó có vẻ không logic lắm. Khi vua Tịnh Phạn bịnh nặng đức Phật về thăm cha săn sóc và giảng đạo cho cha nghe mất 10 ngày vua Tịnh Phạn đắc thành A la hán trước khi chết. Khi Cấp cô độc bịnh gần chết thì Phật có bảo Xá lợi Phất đến thăm và giảng cho người thiền tập thành A la Hán rồi mới chết đi. Theo kinh Nikaya thì tất cả đều giảng trước khi chết chứ không có việc giảng sau khi chết. Điều ấy có nghĩa là chết rồi mất 6 căn thì không thể tu tập được. Nếu vậy thì kinh Lăng già cũng sai, kinh Vi diệu Pháp đều sai, kinh Hoa nghiêm đều sai và nhiều kinh nữa đều do đức Phật giảng cho người cõi vô tướng , ma vương, cõi trời.
Như vậy chư thiên tu thành Phật là không có logic. Chư thiên có thể do nghiệp thiện nhiều lên đó một thời gian rồi trở lại thành người.Tiếp theo cõi tịnh độ cũng không có logic. Khai thị cho người chết trong 49 ngày cũng không logic. Lễ sám hối Lương hoàng Sám cũng không có logic. Phật giáo nguyên thủy phủ nhận hoàn toàn các việc này. Chỉ có Đại Thừa là chấp nhận sự huyền diệu của tâm thức có thể tu tiếp thành Phật. Đại thừa cho rằng tàng thức chứa tánh giác trong đó và có thể chuyển hóa bằng tu tập chủng tử chín mùi trong tàng thức. Sau khi uẩn sắc chết đi thì năng lượng còn lại là tâm thức đó không còn bị phân tán qua 6 căn nữa nên rất mạnh có thể chuyển hóa huân tập thành chín mùi. Mật tông và Tịnh Độ tông cho rằng tâm thức hay cõi thiên vẫn nghe giảng pháp và tu tập thành Phật được. Sự tu tập này không cần có 6 căn và sự huân tập của thức trong tàng thức cũng hiệu quả như có 6 căn vậy. Đã là tôn giáo thì chấp nhận có sự kỳ diệu và thần thánh (magic) đó niềm tin mà ra. Nhất thiếc duy tâm tạo là đây. Đại thừa có lối tu tập tại A lại da thức bằng thức chuyển hóa thành trí ngay chính trong tàng thức không cần phải đi qua ý thức tức đi qua não bộ 6 căn.
Tóm lại sự khác biệt nguyên thủy và đại thừa về tu tập cần có 6 căn hay không đều do niềm tin mà thực hiện. Đại thừa tin rằng thần thức trong 49 ngày là thân trung ấm tức là trung chuyển từ thân chết qua thân mới sinh ra của ấm là ngủ uẩn. Họ có thể vịn vào 6 căn của người thân mà nghe, tư duy thiền định và hiểu đạo ngộ đạo khi nghe giảng khả thi. Lúc đó họ rất mạnh vì 6 căn của họ đã bị tiêu diệt. Tâm thức họ dựa vào 6 căn của người thân nên họ tập trung cao độ và tập trung năng lượng dồi dào. Đại thừa cho rằng khi sanh ra chúng ta có ý thức nên che mờ tánh giác có sẵn trong Tàng thức đi đầu thai. Như vậy muốn đạt tánh giác thì vén che mờ của ý thức đi thì tánh giác lộ dạng. Như vậy tánh giác ở tàng thức có thể tu tập dễ dàng hơn khi ý thức đã chết? Để đạt trực giác trực nhận. Trực giác là biết trực tiếp thẳng vào vấn đề mà không kinh qua suy luận phân tích của ý thức thì gọi là trực giác. Trực giác này không bị ảnh hưởng của ý thức, học vấn kiến thức nên người nông dân và kẻ học vị tiến sĩ đều như nhau cùng một cái biết này gọi là tánh giác. Lúc bấy giờ sư huân tập trong tàng thức thành Đại viên cảnh trí, thức biến thành trí. Đi đến kết luận là chết rồi hết 6 căn thì vẫn tu tập tàng thức được để huân tập chúng thành trí. Vì thế nên mới có giảng kinh cho mẹ Phật trên cõi trời đâu lợi kinh Vvi diệu pháp, giảng cho ma vương trên đỉnh núi Lăng Già.
Giảng cho chư thiên trên cõi trời kinh Hoa nghiêm và khai thị cho người mất làm tuần 49 ngày. Và Tịnh độ tông có cõi Tịnh độ là nơi Phật A Di Đà giảng pháp cho chúng sanh nguyện theo người tu tập. Tất cả đều mơ hồ và do lòng tin vì có ai chết rồi mà sống lại nói cho chúng ta hiểu đâu? Khi xưa Phật có nói với Ananda rằng nếu ta giảng về bên kia của cõi chết thì Bà la môn sẽ hỏi ta có chết rồi sống lại đâu mà biết đều đó nên ta im lặng. Đạo Phật là giải thoát sinh tử luân hồi khổ đau lậu hoặc, chứ không phải đạo giải thích bên kia thế giới chết rồi là gì làm gì tu tập gì? Phật dạy chúng ta là người bị tên độc tham sân si bắn thì lo chữa trị rút tên ra và trị hết tham sân si, tại sao lại lo đi hỏi tên này ai bắn tại sao bắn?
Một hôm Xá lợi Phất bạch Phật rằng sao các quốc độ của các vị Phật khác thì đẹp đẻ lý tưởng vui tươi còn quốc độ của Phật là cõi ta bà này thì đầy phiền não xấu xa chiến tranh giết người đói khát và đầy tranh nhau không từ bi hỷ xã? Phật bảo hãy xem đây cõi thế giới của ta, Phật dẫm chân xuống đất thì hiện ra chung quanh Phật một thế giới đầy thanh tịnh an lạc tươi đẹp và không còn người áp hiếp người. Tất cả chỉ xảy ra một chớp mắt rồi hết trở lại như cũ. Phật bảo nhất thiết duy tâm tạo. Tâm ta thanh tịnh thì chung quanh thanh tịnh. Cho nên trong pháp môn Tịnh Độ có tịnh độ nhân gian là cõi tịnh độ ngay hiện ra trong thế giới chúng ta đang sinh sống là cõi tịnh độ đích thật nên gọi là tịnh độ nhân gian. Có người còn gọi là Tịnh độ Di lạc vì do Phật Di Lạc sẽ thống trị tương lai. Vậy tu tịnh độ cũng đừng mong cầu một cõi tịnh độ ngoài trái đất này mà phải tu tập cõi tịnh độ trên trái đất này. Đạo Phật bát bỏ sự thành hình chúng sinh trên trái đất này do một vị Trời sáng tạo ra. Lý do tại sao người ấy tạo ra chúng sanh lại hành hạ chúng sống khổ sở khác nhau về cuộc đời họ hoàn toàn và phải chết trong đau đớn? Như vậy trách nhiệm của người sáng tạo ra để làm gì? Như thế trên trái đất nầy Phật dạy sống hạnh phúc chết bình an là điều cần thiết của người con Phật. Một hôm đức Phật bảo ông Cấp Cô độc – một thương gia danh tiếng : Này cư sĩ, sống thường nhật có 4 thứ hạnh phúc:
1/Sở hữu lạc : sự thọ hưởng bảo đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính đáng.
2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng tài sản đó một cách rộng rãi,cho chính mình ,cho gia đình bà con,bè bạn, trong những việc công đức.
3/ Vô trái lạc : Không bị nợ nần đeo bám.
4/ Vô tội lạc : Sống một đời sống trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh ngoài xã hội”.
Nếu theo 4 điều trên thì cuộc sống ta sẽ an lạc và hạnh phúc. Và như thế cõi tịnh đó thế gian là đây. Tâm tịnh thì quốc độ tịnh.Đúc kết tôi tìm tôi trong Phật bằng hai bài kệ kinh Pháp cú:
Giản dị cũng như hai câu sau này của Kinh Pháp Cú :
“Không làm các điều ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Ấy lời chư Phật dậy”. (Dh 183)
“Không Ðịnh nào không Tuệ,
Không Tuệ nào không Ðịnh,
Ai cùng lúc Ðịnh Tuệ,
Người ấy gần Niết Bàn”. (Dh 372)
Vậy tôi tìm tôi trong Phật và tôi tìm Phật trong tôi có nghĩa gì? Phật đây là phật tánh là tánh giác là chân như là chân tâm là tri kiến Phật là Niết bàn…và tôi đây là vô ngã không có tôi của thế tục mà là có cái tôi của chân ngã. Vì chân ngã nên tôi chính là Phật và Phật chính là tôi. Khi Phật sanh ra tay chỉ trời tay chỉ đất duy ngã độc tôn là điểm chính yếu để hiểu chân ngã này. Chân ngã là duy ngã độc tôn là Phật tánh. Phật tánh với tôi là một. Kết luận tôi tìm tôi trong Phật và tôi tìm Phật trong tôi với Phật là Phật tánh và tôi là chân ngã là cái tôi thật sự tối thượng của chân đế chứ không phải cái tôi của tục đế là cái tôi do 5 uẩn vai không là do duyên mà hợp thành. Chúng ta kết luận theo mấy câu thơ của thiền sư Đạo Huệ thời Lý: Ðất, nước, lửa, gió, thức
Vốn tất cả đều là không
Cũng như mây hợp rồi tan
Còn mặt trời Phật thì chiếu vô cùng
Sắc thân và diệu thể
Không hợp cũng không chia ly
Nếu người muốn phân biệt
Thì cũng như hoa sen trong lò lửa.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Phổ Tấn
Phổ Tấn viết
Cãm tạ bạn hiền.
Phổ Tấn
Bùi Vũ Long viết
NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.