Quý vị đang tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ TÔNG trong đạo Phật có nghĩa là gì. Ý nghĩa của từ TÔNG theo từ điển Phật học như sau:
TÔNG
TÔNG
I. Tông :
Phạn : Siddhànta.
Hán âm : Tất- đàn- đa.
Đồng nghĩa : Tông yếu, Tông chiếu.
Cái mà mình tôn sùng, mình chủ trương, thông thường chỉ cho ý chỉ chính, nghĩa thú mà các giáo phái tôn sùng, hoặc chỗ quy thú của toàn bộ giáo thuyết trong các kinh luận. Phán định tông yếu của mỗi bộ kinh, luận gọi là Minh tông. Chẳng hạn như, Kinh Duy- ma lấy Bất khả tư nghì giải thoát làm Tông. Kinh Đại Phẩm lấy Không Huệ làm Tông, Kinh Thắng- man lấy Nhất Thừa làm Tông. Theo Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương 1, phần đầu, ngoại đạo ở Ấn Độ thời xưa gồm có 16 tông như Nhân trung hữu quả…, Pháp Hoa Kinh Huyền Tán 1 thì quy nạp tất cả 20 bộ phái Tiểu thừa thành 6 tông : Ngã pháp câu hữu, Hữu pháp vô ngã, Pháp vô khứ lai, Hiện thông giả thật, Tục vọng chân thật, Chư pháp đãn danh, đồng thời chia Đại thừa thành 2 tông : Thắn nghĩa giai không và Ứng lý viên thật, Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương 1 cũng chia Đại thừa thành 4 tông : Nhất thiết giai không, Chân đức bất không, Tướng tưởng câu tuyệt và Viên minh cụ đức, nếu thêm vào 6 tông Tiểu thừa nói trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán 1 thì có tất cả 10 tông. Tất cả các tông này đều nhắm vào nghĩa thú của các kinh luận mà phán lập nên tông.
Thông thường, gọi những đoàn thể tôn trọng tín ngưỡng cùng một giáo nghĩa là “Tông”. Tông đoàn lại chia ra nhiều chi nhánh gọi là “Phái”.Sự phân chia giữa tông đoàn này và tông đoàn khác gọi là Tông môn, Tông phái. Ngoài ra, giáo nghĩa do 1 phái chủ trương gọi là Thú chỉ, Tông chỉ. Tên gọi của một tông phái gọi là tông danh. Có nhiều lý do về cách lập Tông danh, có khi y theo kinh mà lập, như tông Hoa Nghiêm, tông Niết Bàn; có khi đưa vào luận mà lập, như tông địa luận, tông Câu- xá, tông Tỳ- đàm, tông Tam- luận, tông Thành- Thật; có khi dựa vào giáo nghĩa mà lập, như tông Thiền, tông Tịnh Độ, tông Pháp Tướng, tông Chân Ngôn; có khi dựa vào tên của vị Khai tổ, hoặc tên xứ nơi vị ấy ở mà lập, như tông Thiên Thai, tông Lâm Tế, tông Tào Động ở Trung Quốc, tông Nhật Liên ở Nhật Bản. Giáo nghĩa do tông phái chủ trương gọi là Tông nghĩa, Tông thừa. Học thuyết của tông nghĩa gọi là Tông học; phong khí của một tông gọi là Tông phong; chỉ thú của một tông gọi là Tông ý; Tổ sư của một tông gọi là Tông ý; Tổ sư của một tông gọi là Tông Tổ; môn đệ của một tông gọi là Tông đồ; luận nghị về sự hơn kém, chân ngụy của tông phái gọi là Tông luận; sự việc thuộc giáo đoàn của 1 tông phái gọi chung là Tông vụ. Nơi coi về tông vụ gọi là Tông vụ sở, người chủ trì tông vụ sở gọi là Tông vụ trưởng, Tông trưởng.
Ở Trung Quốc từ đời Đường, các Tổ sư sáng lập ra tông môn bằng sự chuyên môn về nghiên cứu học tập, tu hành của mình, như Thiền tông, Tịnh Độ tông, Luật tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Pháp tướng tông, Mật tông, Thiên Thai tông, gọi là Đại Thừa Bát tông. Nếu thêm 5 tông: Tỳ- đàm, Thành Thật, Niết- bàn, Nhiếp Luận, Địa Luận thì thành 13 tông. Ở Nhật Bản, vào thời đại Bình An có 8 tông thịnh hành là : Luật, Câu- xá, Thành Thật, Pháp Tướng, Tam Luận, Hoa Nghiêm, Thiên Thai và Chân Ngôn; cho nên thông hiểu học thuyết các tông phái Phật giáo thông thường gọi là Bát Tông kiêm học; 8 tông nếu thêm Thiền tông thì gọi là Cửu tông, quen gọi là Bát gia cửu tông. Bát gia cửu tông này bao gồm tất cả tông phái.
Ngoài ra, còn có thuyết 6 tông, 12 tông, 13 tông…
Theo : Pháp Hoa Huyền Ngiã 1;thượng; 9, hạ; Hoa Nghiêm KinhThám Huyền Ký 1; Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần 1.
Xem : Thập Tam Tông.
II.Tông.
Phạn : Pakasa.
Dụng ngữ Nhân Minh.
Một trong 5 chi tác pháp, 1 trong 3 chi tác pháp, 1 trong 8 năng lập. Tức luận đề, phán đoán của chủ trương nào đó đưa ra, được hợp thành bởi Chủ từ (tiền trần) và Tân từ (hậu trần). Chủ từ và tân từ đều gọi là Tông y, 2 từ này hợp thành một mệnh đề gọi là Tông thể. Chẳng hạn như tín đồ Phật giáo đối lại với Thanh Luận sư đề ra :
– Tông : Âm thanh là vô thường.
– Nhân : Vì tánh của nó là cái được làm ra.
Trong đây, “âm thanh” và “vô thường” đều là Tông y, hợp lại thành : “Âm thanh là vô thường” tức là Tông thể, còn “vi tánh của nó là cái làm được làm ra”là Nhân “lý do”. Pháp đối luận của Nhân Minh quy định Tông y đều phải được người lập luận và người vấn nạn cùng chấp nhận (lập địch cộng hứa); còn Tông thể thì “Lập địch bất cộng hứa”, tức là điều mà người lập luận chủ trương bị người vấn nạn phản đối.
Tông được chia làm 2 loại là Chân tông và Tự tông. Chân tông là luận đề chính xác; tự tông là luận đề sai lầm, dường như đúng mà chẳng đúng. Tự tông lại chia làm 3 loại : Tương vị, Bất thành và Cực thành.
Các nhà Cổ Nhân Minh từ ngài Trần Na về trước cho rằng Tông thuộc về năng lập, ý chỉ cho tác pháp có khả năng xác lập chủ trương của chính mình. Nhưng các nhà Tân Nhân Minh cho rằng Nhân, Dụ (lý do) mới đáng gọi là “năng lập”, đó là vì Nhân và Dụ mới có khả năng thành lập Tông, còn bản thân Tông vì chưa được người lập luận và người vấn nạn cùng chấp nhận, còn đợi bàn luận mới xác lập được, cho nên chỉ thuộc về “sở lập” chứ không phải “năng lập”. Đó là một điểm sai khác lớn giữa chủ trương của Tân Nhân Minh và Cổ Nhân Minh.
Theo : Luận Nhân Minh Nhập Chánh Lý; Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Ngộ Tha Môn Thiền Thích (Trần Đại Tề); Nhân Minh Học (Ngu Ngu).
Xem : Tông y, Tông thế.
Theo từ điển Phật học Huệ Quang
Cảm ơn quý vị đã tra cứu Từ điển Phật học online trên trang nhà niemphat.vn.
Quý vị cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa, thuật ngữ Phật học khác có liên quan với TÔNG tương ứng trong từ điển Phật học online:
Để lại một bình luận