PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH, ENGLISH-VIETNAMESE, SANSKRIT/PALI-VIETNAMESE
THIỆN PHÚC
K
Kẻ Ăn Mày: Beggar.
Kẻ Cầu Nguyện: Those who pray
by dedicating of merit or by merit transference, or sharing one’s own
merits and virtues with others.
Kẻ Cướp: Robber .
Kẻ Đào Thoát: An escapist.
Kẻ Lừa Đảo: Swindler.
Kẻ Thù: Adversary—Enemy.
Kẻ Trộm: Burglar—Thief
Kẻ Vạch: To get someone into
trouble
Kẻ Xấu Xa: Demon—Devil—Mara.
Kẻ Yếu Hèn: The weak.
Kẽ Tóc Chân Tơ: In detail.
Kém: Less.
Kém Quan Trọng: Of less
importance.
Kén Ăn: To be fastidious about
one’s food.
Kén Chọn: To choose—To select.
Keo: Tên khác của chùa là Trần
Quang Tự, tọa lạc tại thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình. Chùa được xây dựng năm 1608 bên bờ sông Hồng Hà, nên bị nước xoáy
mòn dần. Năm 1930, Quận Công Nguyễn Quyên đã cúng dường đất để xây lại
ngôi chùa. Trong chùa có đại hồng chung được đúc vào thời nhà Lê—Another
name for Trần Quang Tự Temple, a famous ancient temple, located in Dũng
Nhuệ hamlet, Duy Nhất village, Vũ Thư district, Thái Bình province. It was
built in 1608 by the bank of the Red River, so it has gradually been
eroded. In 1930, Duke Nguyễn Quyên donated his own land for rebuilding the
temple. The great bell of the temple cast during the Lê dynasty.
Keo Kiệt: Stingy—Misery.
Kê:
1) Con
gà: Kukkuta (skt)—A cock—A fowl—Chicken—Hen.
2) Kê
cứu: To investigate.
3) Kê đầu
kỉnh lễ: To prostrate oneself.
Kê Cẩu Giới: Ngoại đạo vùng Bắc
Ấn, có loại trí thủ kê giới, cẩu giới, kê thì suốt ngày đứng một chân, cẩu
thì ăn phân nhơ bẩn—Heterodox sects in northern India follow cock or dog
discipline, e.g. standing on a leg all day, or eating ordure, like certain
ascetics.
Kê Dẫn Bộ: Gokulikas,
Kukkulikas, Kukkutikas, or Kaukkutikas (skt)—Một trong 20 bộ của Tiểu
Thừa, còn gọi là Khôi Sơn Trụ Bộ, Quật Cự Bộ, Cao Câu Lê Ca Bộ, một trong
20 bộ của Tiểu Thừa, thành lập khoảng 200 năm sau ngày Phật nhập diệt và
biến mất ngay sau đó—One of the twenty Hinayana branches, a branch of the
Mahasanghikas which established around 200 years after the Buddha’s
nirvana and early disappeared.
Kê Độc: Thân Độc—India—Hindu.
Kê Khai: To enumerate—To make a
list.
Kê Khương Na: Kikana (skt)—Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Kê Khương Na là một dân tộc ở A
Phú Hãn, trú ngụ khoảng giữa miền đông Kandhar và miền nam Ghazna, vào
khoảng những năm 630 sau Tây Lịch được cai trị bởi những vị lãnh chúa độc
lập, có lẽ theo niên kỷ của Ả Rập đây là dân tộc Kykanan—According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Kikana is a
people in Afghanistan, east of Kandahar, south of Ghazna, ruled 630 A.D.
by independent chieftains, perhaps identical with the Kykanan of Arabic
chroniclers.
Kê Quý:
1) Người
Tây Trúc gọi nước Cao Ly là Câu Câu Tra-Y Thiết La (Câu Câu Tra là kê, Y
Thiết La là quý)—Indian people called Korea by Kukkutesvara.
2) Tôn
quý loài gà: Honouring or reverencing the cock.
Kê Tác La: Kesara (skt).
1) Tóc
hay lông: Hair.
2) Lông
bờm của sư tử: Mane of a lion.
3) Lông
quắn: Curly hair.
4) Tên
một loại bảo châu: Name of a gem.
Kê Thủ: Phủ phục—To make
obeisance by prostration.
Kê Túc Sơn: Kukkutapada (skt).
1) Núi
Chân Gà, nơi tôn giả Ca Diếp nhập diệt ở xứ Ma Kiệt Đà, nhưng người ta tin
ngài hãy còn sống: Cock’s foot mountain, in Magadha, on which Kasyapa
entered into nirvana, but where he is still supposed to be living.
2) Còn
gọi là núi Lang Tích (dấu chó sói): Also called the Wolf-Track.
3) Tôn
Túc Sơn: Gurupada (skt)—Buddha’s Foot Mountain.
Kê Viên: Kukkutarama (skt)—Theo
Tây Vực Ký, Kukkutarama còn gọi là Kê Đầu Ma Tự hay Kê Tước Tự, một ngôi
chùa trên núi Kê Đầu do vua A Dục xây (ở phía đông nam cổ thành có ngôi
già lam Quật Quật Tra A Lạm Ma mà đời Đường gọi là Kê Viên, do vua Vô Ưu
xây dựng. Vua Vô Ưu tín ngưỡng Phật pháp, kính cẩn dựng chùa, chăm làm
việc thiện, chiêu tập hàng ngàn Tăng chúng)—According to The Great T’ang
Chronicles of the Western World, Kukkutarama, a monastery on the Kukkuta
Mountain, built by Asoka.
Kế:
1) Búi
tóc: Topknot—Tuft—The hair coil on top.
2) Cỏ
gai: A thistle.
3) Kế
bên: Annex.
4) Kế
thừa: To inherit—To adopt.
5) Kế
tục: Tiếp tục hay tương tục—To continue.
6) Kế
toán: Accounting—To reckon.
Kế Bảo: Theo Kinh Pháp Hoa, “Kế
Bảo” là hạt ngọc báu quý nhất cài trên mái tóc của vị quốc vương (theo
Kinh Pháp Hoa thì có một người có công to, nhà vua bèn cởi viên minh châu
cài trên tóc ban cho, để ví với việc Đức Phật giảng thuyết Kinh Pháp Hoa
cho hạng người đã ra khỏi sinh tử phân đoạn, mà tinh tấn để lìa hẳn sinh
tử biến dịch)—According to The Lotus Sutra, this is the precious stone
worn in the coiled hair on top of the king’s head. It is the king’s most
prized possession.
Kế Châu: See Kế Bảo.
Kế Danh Tự Tướng: Theo Đại Thừa
Khởi Tín Luận, đây là sự y vào vọng chấp mà lập ra danh từ hư giả (chỉ sự
suy tính so đo giữa vật nầy với vật nọ)—According to The Awakening of
Faith, this is the stage of giving names (to seeming things, etc.).
Kế Đô: Ketu (skt).
1) Sao kế
đô, tên của hai chòm sao nằm bên trái và phải của chòm sao Aquila: A
comet, name of two constellations to the left and right of Aquila—See Cửu
Diệu.
2) Bất cứ
vẻ sáng rực nào: Any bright appearance.
Kế Độ: Tarka or Vitarka
(skt)—Tính toán—Phân biệt—To calculate—To differentiate—To reckon.
Kế Hoạch: Plan.
Kế Lợi Cát La: Kelikila
(skt)—Kế Lợi Tích La—Kế Lý Kế La—Tên của một vị Kim Cang Thủ Bồ Tát—The
attendant of a deva, one of the Vajrapanis.
Kế Lợi Da: Surya (skt).
1) Mặt
Trời: The sun.
2) Thần
mặt trời: The sun-god.
Kế Mẫu: Stepmother.
Kế Ngã Thực Hữu Tông: Kế Ngã
Luận—Một trong 16 tông phái ngoại đạo. Tông nầy vọng chấp vào ngã ly uẩn
và phi ngã phi ly uẩn (cho rằng cái ta là có thực, là thường nhất; do chấp
có ta nên chấp có cuộc sống, từ đó mà sanh ra 5 cơ quan cảm giác)—The sect
that reckons on, or advocates, the reality of personality, one of the
sixteen heterodox sects.
Kế Sinh Nhai: Means of living.
Kế Tát La: Kesara
(skt)—Tóc—Hair—Filament.
Kế Tân: Vương quốc cổ Kế Tân,
bây giờ là Kashmir, nằm về phía tây bắc Ấn Độ—Ancient Kashmir kingdom,
situated in the north-east of India—See Kashmir in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kế Thừa: To inherit something
from someone.
Kế Tiếp: To succeed.
Kế Tục: To continue—To follow.
Kế Vị: To succeed to the
throne.
Keà: Close to—Near to.
Kể: To count—To mention—To
enumerate.
Kể Trên: Above-mentioned.
Kể Truyện: To tell story—To
relate.
Kệ: Gatha (skt)—Già Đà—Già
Tha—Phúng Tụng (gồm bốn câu với số chữ nhứt định trong mỗi
câu)—Chant—Metrical hymn or chant—Poem—Stanza—Verse.
Kệ Đà: Hymn—Chant—To hymn.
Kệ Huệ Năng: The verse of Hui
Neng.
Bồ đề vốn không
cây,
Gương sáng cũng
chẳng đài,
Xưa nay không một
vật,
Chỗ nào dính bụi
bặm?
Originally Bodhi
has no tree,
The bright mirror
has no stand.
Originally there
is not a single thing,
Where can dust
alight?
Kệ Khai Kinh: Verse for opening
a Sutra.
·
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp (Phật pháp rộng sâu rất
nhiệm mầu)
The
unsurpassed, deep, profound, subtle wonderful Dharma.
·
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ (Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm
cầu)
In a
hundred thousand million eons, it is difficult to encounter.
·
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì (Con nay nghe được xin trì
tụng)
Now that
I have come to receive and hold it, within my sight and hearing.
·
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa (Nguyện rõ Như Lai
nghĩa nhiệm mầu)
I vow to
fathom the Thus Come One’s true and actual meaning.
Kệ Phá Địa Ngục: Stanza that
destroys hell:
Nhược
nhơn dục liễu tri.
If
people want to really know.
Tam thế
nhứt thiết Phật
All
Buddhas of all times.
Ưng quán
pháp giới tánh
They should contemplate the nature of the
cosmos.
Nhứt
thiết duy tâm tạo
All is
but mental construction
(Everything is made from mind).
Kệ Sám Hối: Verse of
Repentance:
Từ
vô thỉ con tạo bao nghiệp ác
From beginningless, I had done so
many vicious deeds
Do
bởi tham, sân, si,
Only because of Greed, Anger and
Stupidity,
Từ
thân, khẩu, ý mà sanh ra
They are coming from body, mouth
and mind
Nay
con xin thành tâm sám hối tất cả.
Now I sincerely
ask for forgiveness in my
repentance.
Kệ Tán: Dùng câu kệ tán thán
công đức của người khác—To sing in verse the praises of the object adored.
Kệ Tha: See Kệ.
Kệ Thần Tú: The verse of Shen
Hsiu.
Thân là cội Bồ đề,
Tâm như đài gương
sáng.
Luôn luôn phải lau
chùi,
Chớ để dính bụi
bặm.
The body is a
Bodhi tree,
The mind like a
bright mirror stand.
Time and again
brush it clean,
And let no dust
alight.
Kệ Tụng: Kệ đà—Hymn—Chant.
Kệ Tứ Liệu Giản Của Đại Sư Vĩnh Minh:
Four options or choices from Yung Ming Master:
Có Thiền có Tịnh, như cọp
mọc sừng, đời nầy làm thầy người, đời sau làm Phật.
To practice bothe Zen and
the Pure Land, one is like a tiger with horns, in the present life the
cultivator is a teacher of man, in the future he will be a Buddha or a
patriarch.
Có Thiền không Tịnh, mười
tu chín lạc đường
To practice Zen without
the Pure Land, nine out of ten seekers of the way will take the wrong
road.
Không Thiền có Tịnh, vạn
tu vạn chứng.
To practice the Pure Land
without the Zen, ten thousand practice, ten thousand will go to the right
way.
Kệ Tự Tánh Của Lục Tổ Huệ Năng:
The verse on the Self-Nature of the Sixth Patriarch Hui neng.
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.
How unexpected!
The self-nature is pure in itself.
The
self-nature is orginally neither produced nor destroyed.
The self-nature is originally complete in itself.
The
self-nature is originally without movement,
The
self-nature can produce the ten thousand dharmas.
Kệ Vô Tướng Của Lục Tổ Huệ Năng:
No-Mark Stanza from Hui-Neng Patriarch—Lục tổ muốn nhắc nhở người tu không
nên tìm lỗi người, vì càng dùng thời gian để tìm lỗi người chúng ta càng
xa đạo—Patriarch Hui-neng wanted to remind the cultivators try not to see
anybody’s faults, but our own because the more time we spend to find other
people’s faults the farther we are away from the Path:
·
Nhược kiến tha nhơn phi (nếu là bậc chân tu, chúng ta không
bao giờ thấy lỗi đời)
He who
treads the path in earnest, see not the mistake of the world.
·
Tự phi khước thị tả (Nếu như thấy lỗi người, mình chê thì
mình cũng là kém dỡ)
If we
find faults with others, we ourselves are also in the wrong.
·
Tha phi ngã bất phi (Người quấy ta đừng quấy).
When
other people are in the wrong, we should ignore it.
·
Ngã phi tự hữu quá (Nếu chê là tự ta đã có lỗi).
For it
is wrong for us to find faults.
·
Đản tự khước phi tâm.
By
getting rid of the habit of fault-finding,
·
Đả trừ phiền não phá (Muốn phá tan phiền não).
We cut
of a source of defilement.
·
Tắng ái bất quan tâm (Thương ghét chẳng để lòng).
When
neither hatred nor love disturb our mind.
·
Trường thân lưỡng cước ngọa (Nằm thẳng đôi chân nghỉ).
Serenely
we sleep.
Kềm Chế: To refrain.
Kềnh Càng: Bulky.
Kết:
(A) Nghĩa
của “Kết”—The meanings of “Bond”
·
Trói buộc: To tie a knot—Bound—Tie—Knot—Settle—Wind up—To
form.
·
Trói buộc của luân hồi sanh tử: The bond of transmigration.
(B) Phân
loại “Kết”—Categories of “bonds”
1) Tam
Kết: Three bonds—See Tam Kết.
2) Ngũ
Kết: Five bonds to mortality—See Ngũ Kết.
3) Ngũ Hạ
Phần Kết: The five bonds in the lower desire-realms or the lower
fetters—See Ngũ Hạ Phần Kết.
4) Ngũ
Thượng Phần Kết: The five higher bonds of desire still exist in the upper
realms of form and formlessness—See Ngũ Thượng Phần Kết.
5) Cửu
Kết: The nine bonds that bind men to mortality—See Cửu Kết.
Kết Án: To condemn—To
sentence—To convict.
Kết Bạn: To make friends.
Kết Bệnh: Bệnh của sự trói buộc
vào dục vọng và sanh tử luân hồi—The disease of bondage to the passions
and reincarnation.
Kết Cuộc: The end.
Kết Duyên: Kết duyên (với Phật
Pháp) để được độ sau nầy. Căn bản 84.000 kiếp qua mà Đức Đại Thông Trí
Thắng Như Lai đã dạy trong Kinh Pháp Hoa cho 16 vị đệ tử để trở thành 16
vị Phật, mà Phật Thích Ca là lần tái sanh thứ 16—To form a cause or basis,
to form a connection, e.g. for future salvation. The basis or condition
laid 84,000 kalpas ago by Mahabhijna-jnanabhibhu in his teaching of the
Lotus Sutra to 16 disciples who became incarnate as 16 Buddhas, for the
subsequent teaching of the Lotus scriptures by Sakyamuni, the last of the
16 incarnations, to his disciples.
Kết Duyên Chúng: Một trong Tứ
Chúng, do duyên kiếp trước còn nông cạn, chưa được độ nên kết nhân duyên
đắc đạo sau nầy, với hy vọng cải thiện nghiệp chướng trong tương lai—The
company or multitude of those who noe become Budhists in the hope of
improved karma in the future, one of the four groups of disciples.
** For more information,
please see Tứ Chúng
(B) (4).
Kết Giải:
1) Trói
buộc và giải thoát: Bị phiền não trói buộc và giải thoát tự tại—Bondage
and release.
2) Giải
thoát khỏi sự trói buộc: Giác ngộ được lý mà giải thoát—Release from
bondage.
Kết Giảng: Kết thúc một bài
thuyết trình trong buổi bế mạc (kỳ an cư kiết hạ hay buổi nhóm họp chư
Tăng Ni)—Concluding an address, or the address, i.e. the final day of an
assembly.
Kết Giao: Làm bạn với ai—To
form a friendship with someone.
Kết Giới: See Kiết Giới.
Kết Hà: Dòng sông trói buộc của
khổ đau hay phiền não—The river of bondage, i.e. of suffering or illusion.
Kết Hạ: See Kiết Hạ.
Kết Hợp: To associate—To
unite—To combine.
Kết Kinh: See Kiết Kinh.
Kết Lậu: Kết và lậu là tên gọi
khác của phiền não. Trói buộc và luân hồi sanh tử là do bởi dục
vọng—Bondage and reincarnation because of the passions.
Kết Liên: To League—To unite—To
ally.
Kết Liễu: To finish—To
conclude—To close—To end.
Kết Luận: To end—To conclude—To
come to a conclusion (an end)—Conclusion.
Kết Nạp: To admit.
Kết Nghĩa: To make friends—To
be friends with someone.
Kết Nghiệp: Sự trói buộc của
nghiệp, hay nghiệp là kết quả của sự trói buộc của dục vọng—The bond of
karma, the karma resulting from the bondage to passions or delusions.
Kết Nguyện:
1) Kết
thúc hay hoàn thành lời nguyện: To conclude a vow.
2) Ngày
bế mạc đại hội an cư kiết hạ: The last day of an assembly (of a summer
retreat).
Kết Oán: To create enemies.
Kết Phược: Tên khác của phiền
não, dục vọng hay phiền não trói buộc thân tâm—To tie and knot, i.e. in
the bondage of the passions, or delusion.
Kết Quả Của Nghiệp: Karmic
results—The natural reward or retribution for a deed, brought about by the
law of karma.
Kết Sanh: Sự trói buộc vào tái
sanh hay thân trung hữu chết đi để thác sanh vào thai mẹ (theo Câu Xá
Luận: “lúc lâm chung thì trung hữu đối với hai tâm niệm trái ngược nhau là
yêu và ghét sẽ hiện khởi, đến khi nhập thai thì đẩy bỏ cái tâm ghét chỉ
chừa lại cái tâm yêu, bảo đây là của mình, rồi từ đó sinh vui mừng, nên
các uẩn lớn thêm lên, thân trung hữu liền mất đi và sinh hữu hay kết sanh
đã thành)—The bond of rebirth.
Kết Sử: See Kiết Sử.
Kết Tặc: Những kẻ trói buộc hay
những tên giặc, ý nói dục vọng và phiền não—Binders and robbers, the
passions, or delusion.
Kết Tập Kinh Điển: Đức Phật đã
nhập diệt, nhưng giáo lý của Ngài vẫn còn lưu truyền đến ngày nay một cách
trọn vẹn. Mặc dù giáo huấn của Đức Thế Tôn không được ghi chép ngay thời
Ngài còn tại thế, các đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và
truyền khẩu từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Vào thời Đức Phật còn tại thế,
biết chữ là đặc quyền của giới thượng lưu ở Ấn Độ, vì thế truyền khẩu giáo
lý là một dấu hiệu cho thấy dân chủ được coi trọng trong truyền thống Phật
giáo đến mức cách trình bày giáo pháp bằng văn chương đã bị bỏ quên. Nhiều
người không biết chữ, cho nên truyền khẩu là phương tiện phổ thông và hữu
hiệu nhứt để gìn giữ và phổ biến giáo pháp. Vì có nhiều khuynh hướng sai
lạc về giáo pháp nên ba tháng sau ngày Đức Thế Tôn nhập diệt, các đệ tử
của Ngài đã triệu tập Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo để đọc lại di
ngôn của Phật. Lịch sử phát triển Phật giáo có nhiều Hội Nghị kết tập kinh
điển với những hoàn cảnh vẫn có phần chưa rõ. Lúc đầu các hội nghị nầy có
thể là những hội nghị địa phương chỉ tập hợp vài cộng đồng tu sĩ. Sau đó
mới có những nghị hội chung—The Buddha has passed away, but His sublime
teaching still exists in its complete form. Although the Buddha’s
Teachings were not recorded during His time, his disciples preserved them,
by committing to memory and transmitted them orally from generation to
generation. At the time of the Buddha, literacy was a privilege of the
elite in India, and this another indication of the premium placed on
democracy within the Buddhist tradition that literary formulation of the
teaching was neglected for so long. Many people were not literate, so word
of mouth was the universal medium for preservation and dissemination of
the Dharma. Three months after the Buddha’s Parinirvana, there were some
tendencies to misinterpret or attempts were being made to pollute His Pure
Teaching; therefore, his disciples convened Councils for gathering
Buddha’s sutras, or the collection and fixing of the Buddhist canon. In
the development of Buddhism, several councils are known, the history of
which remains partially obscure. These Councils were originally probably
localassemblies of individual monastic communities that were later
reported by tradition as general councils.
(I) Hội
Nghị Kết Tập Lần Thứ Nhất—The First Council: Ba tháng sau ngày Đức Phật
nhập diệt (vào khoảng năm 543 trước Tây Lịch), do nhận thấy có khuynh
hướng diễn dịch sai lạc và xu hướng suy yếu về giới luật trong nội bộ Tăng
Già sau khi Phật nhập diệt, nên Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ nhất
được vua A Xà Thế tổ chức tại hang Pippala, có sách lại ghi là hang
Saptaparni, trong thành Vương Xá thuộc xứ Ma Kiệt Đà. Dù vị trí và tên của
hang vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng không có gì nghi ngờ là Hội
Nghị thứ nhất đã diễn ra tại thành Vương Xá. Các học giả đều thừa nhận
rằng Hội Nghị Kết Tập lần thứ nhất nầy chỉ bàn về Kinh Tạng (Dharma) và
Luật Tạng (Vinaya), phần Luận Tạng không được nói đến ở đây. Trong hội
Nghị nầy có 500 vị Tỳ Kheo tham dự, trong đó có ngài Đại Ca Diếp, người
được trọng vọng nhất và là bậc trưởng lão, và hai nhân vật quan trọng
chuyên về hai lãnh vực khác nhau là Pháp và Luật là ngài A Nan và Ưu Ba Li
đều có mặt. Chỉ hai phần Pháp và Luật là được trùng tụng lại tại Đại Hội
lần thứ nhất. Tuy không có nhiều ý kiến dị biệt về Pháp, có một số thảo
luận về Luật. Trước khi Đức Phật nhập diệt, Ngài có nói với ngài A Nan
rằng nếu Tăng Đoàn muốn tu chính hay thay đổi một số luật thứ yếu cho hợp
thời, họ có thể làm được. Tuy nhiên, vào lúc đó ngài A Nan vì quá lo lắng
cho Đức Phật nên quên không hỏi những luật thứ yếu là những luật nào. Vì
các thành viên trong Hội Nghị không đi đến thỏa thuận về những luật nào
thuộc về thứ yếu nên ngài Ma Ha Ca Diếp quyết định không có luật lệ nào đã
được đặt ra bởi Đức Phật có thể được thay đổi, và cũng không có luật lệ
mới nào được đưa ra. Ngài Đại Ca Diếp nói: “Nếu ta thay đổi luật, người ta
sẽ nói đệ tử của Đức Cồ Đàm thay đổi luật lệ trước khi ngọn lửa thiêu Ngài
chưa tắt.” Trong Hội Nghị nầy, Pháp được chia làm hai phần và mỗi phần
được trao cho một vị trưởng lão cùng với đệ tử của vị ấy ghi nhớ. Pháp
được truyền khẩu từ thầy đến trò. Pháp được tụng niệm hằng ngày bởi một
nhóm Tỳ Kheo và thường được phối kiểm lẫn nhau để bảo đảm không có sự
thiếu sót cũng như không có gì thêm vào. Các sử gia đều đồng ý truyền
thống truyền khẩu đáng tin cậy hơn văn bản của một người viết lại theo trí
nhớ của mình vài năm sau hội nghị. Nhiều người nghi ngờ hiện thực lịch sử
của Hội Nghị Kết Tập Kinh Điển lần đầu nầy, nhưng có thể là việc biên soạn
những văn bản Kinh Luật thiêng liêng đầu tiên diễn ra tương đối sớm. Vào
lúc Đại Hội sắp kết thúc, có vị Tăng tên là Purana được những người tổ
chức mời tham gia vào giai đoạn bế mạc của Đại Hội, Purana đã khước từ và
nói rằng ông chỉ thích nhớ lại những lời dạy của Đức Phật như ông đã từng
nghe từ chính kim khẩu của Đức Phật. Sự kiện nầy cho thấy tự do tư tưởng
đã hiện hữu từ thời khai mở của cộng đồng Phật giáo—Three months after the
passing of the Buddha (in about 543 B.C.), detecting tendencies within the
Sangha toward loss of discipline, as well as misinterpreting His Pure
Teaching, the First Council was organized by King Ajatasatru, and held at
the Pippala cave, some said near the Saptaparni cave, at Rajagriha in
Magadha. Even though the site and name of the cave have not yet been
definitely identified. Nonetheless, there is no dispute about the fact
that it is at Rajagrha that the First Council met. It is accepted by
critical scholars that the First Council settled the Dharma and the
Vinaya, and there is no ground for the view that Abhidharma formed part of
the canon adopted at the First Council. In this Council, there were 500
Bhiksus, among them Maha-Kasyapa was the most respected and elderly monk,
and two very important persons who specialized in the two different areas
which are sutras and vinaya were present. One was Ananda and the other was
Upali. Only these two sections, the Dharma and the Vinaya, were recited at
the First Council. Though there were no differences of opinion on the
Dharma, there was some discussion about the Vinaya rules. Before the
Buddha’s Parinirvana, he had told Ananda that if the Sangha wished to
amend or modify some minor rules, they could do so. However, on that
occasion Ananda was so overpowered with grief because the Buddha was about
to pass away, he forgot to ask the Master what the minor rules were. As
the members of the Council were unable to agree as to what constituted
the minor rules, Maha-Kasyapa finally ruled that no disciplinary rule laid
down by the Buddha should be changed, and no new ones should be
introduced. Maha-Kasyapa said: “If we changed the rules, people will say
that the Buddha’s disciples changed the rules even before his funeral fire
has ceased burning.” At the Council, the Dharma was divided into various
parts and each part was assigned to an Elder and his pupils to commit to
memory. The Dharma was then passed on from teacher to pupil orally. The
Dharma was recited daily by groups of people who often cross check with
each other to ensure that no omissions or additions were made. Historians
agree that the oral tradition is more reliable that a report written by
one person from his memory several years after the event. The historicity
of this Council is doubted by many. Nevertheless, it is likely that the
first collection of writings took place relatively early. At the end of
the First Council, a monk named Purana was invited by the organizers to
participate in the closing phases of the council, but he declined, saying
that he would prefer to remember the teachings of the Buddha as he had
heard it from the Buddha himself. This fact indicates the freedom of
thought existed at the time of the beginning of Buddhist community.
a) Ngài
Đại Ca Diếp, người được mọi người trọng vọng nhất mà cũng là bậc trưởng
lão, là chủ tịch Hội Nghị—Maha Kasyapa, the most respected and elderly
monk, presided at the First Council.
b) Kế đó,
ngài Đại Đức Ưu Ba Li/Upali trùng tụng lại những giới luật của Phật bao
gồm luật cho cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Ngài Ưu Ba Li đã tụng đọc 80 lần
các văn luật trong 90 ngày mới hoàn tất nên còn gọi là “80 tụng luật.” Đây
cũng là giới luật căn bản cho Phật giáo về sau nầy bao gồm những văn bản
sau đây—Then, Venerable Upali remembered and recited all the rules set
forth by the Buddha (rules of the Order), including all rules for monks
and nuns. Venerable Upali recited eighty times all these rules in 90 days.
These rules include:
·
Luật Thập Tụng: Sarvastivada-Vinaya.
·
Luật Tăng Kỳ: Samghika-Vinaya.
·
Luật Tứ Phần: Dharmagupta-Vinaya.
·
Luật Ngũ Phần: Mahissasaka-Vinaya.
c) Kế đó
nữa là ngài A Nan, người đệ tử thân cận nhất của Phật trong suốt 25 năm,
thiên phú với một trí nhớ xuất sắc. Lúc đầu đã không được xếp vào thành
viên Hội Nghị. Theo Kinh Tiểu Phẩm, sau đó vì có sự phản đối của các Tỳ
Kheo quyết liệt bênh vực cho A Nan, mặc dù ông nầy chưa đắc quả A La Hán,
bởi vì ông có phẩm chất đạo đức cao và cũng vì ông đã được học kinh tạng
và luật tạng từ chính Đức Bổn Sư. Sau cùng A Nan đã được Đại Ca Diếp chấp
nhận vào Hội Nghị. A Nan đã trùng tụng lại tất cả những gì mà Đức Phật
nói, gồm những bộ kinh sau đây—Then, Venerable Ananda, the closest
disciple and the attendant of the Buddha for 25 years. He was endowed with
a remarkable memory. First Ananda was not admitted to the First Council.
According to the Cullavagga, later other Bhikhus objected the decision.
They strongly interceded for Ananda, though he had not attained Arhathood,
because of the high moral standard he had reached and also because he had
learnt the Dharma and vinaya from the Buddha himself. Ananda was
eventually accepted by Mahakasyapa into the Council, and was able to
recite what was spoken by the Buddha (sutras and doctrines), including the
following sutras:
d) Năm bộ
kinh A Hàm, còn gọi là A Kiệt Ma—Five Agamas.
·
Trường A Hàm: Dirghagama Sutra (skt)—Ghi lại những bài pháp
dài—Collection of Long Discourses.
·
Trung A Hàm: Madhyamaga Sutra (skt)—Ghi lại những bài pháp
dài bậc trung—Collection of Middle-Length Discourses.
·
Tăng Nhất A Hàm: Anguttara-agama Sutra (skt)—Ghi lại những
bài pháp sắp xếp theo số—Collection of Gradual Sayings.
·
Tạp A Hàm: Samyuktagama Sutra (skt)—Ghi lại những câu kinh
tương tự nhau—Collection of Kindred Sayings.
·
Tiểu A Hàm: Khuddaka-agama (skt)—Ghi lại những câu kệ
ngắn—Smaller Collection.
*** For more information, please see A Nan
Đà in Vietnamese-English Section.
(II) Đại Hội
Kết Tập Lần Hai—The Second Council:
(A) Đại hội
kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại thành Xá Vệ (Tỳ Xá Ly), 100
năm sau ngày Phật nhập diệt. Đại Hội nầy được tổ chức để bàn luận về một
số giới luật (có sự không thống nhứt về giới luật). Không cần thiết phải
thay đổi những giới luật ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt vì lẽ không
có gì thay đổi nhiều về chính trị, kinh tế và xã hội trong khoảng thời
gian ngắn ngủi nầy. Nhưng 100 năm sau, một số chư Tăng (theo giáo lý
nguyên thủy) nhận thấy cần phải có sự thay đổi một số giới luật thứ yếu.
Các nhà sư thuộc phái Vaisali đã chấp nhận vàng và bạc của thí chủ cúng
dường. Yasha, một môn đồ của A Nan, còn đưa ra chín điều trách cứ đối với
các thành viên của cộng đồng Vaisali, nhứt là việc ăn uống vào những thời
điểm bị cấm, về việc dùng rượu, về việc các nhà sư cùng một cộng đồng lại
làm lễ Bố Tát một cách phân tán, vân vân. Hội Nghị lần thứ hai được mô tả
cụ thể hơn nhiều trong các văn bản, nói chung được thừa nhận vững chắc về
mặt lịch sử—The Second Council was held at Vaisali 100 years after the
passing of the Buddha. This Council was held to discuss some Vinaya rules
(there was some disunity concerning matter of discipline). There was no
need to change the rules three months after the Buddha’s Parinirvana
because little or no political, economic or social changes took place
during that short interval. But 100 years later, some monks saw the need
to change certain minor rules One hundred years after the First Council,
the Second Council was held to discuss some Vinaya rules. There was no
need to change the rules three months after the Parinirvana of the Buddha
bcause little or no political, economic or social changes took place
during that short interval. But 100 years later, some monks saw the need
to change certain minor rules. The Second Council is considerably better
documented in the texts that the first and is generally recognized as a
historical event. The Vaisali monks had accepted gold and silver from lay
adherents in violation of the Vinaya rules. Moreover, they were accused by
Yasha, a student of Ananda’s, of nine further violations, including taking
food at the wrong time, separate observance of the Uposatha by monks of a
community, and drinking alcoholic beverages.
(B) Những nhà
sư chính thống cho rằng không có gì nên thay đổi, trong khi những vị khác
thuộc phái Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly (Vaisali) đã khai trừ trưởng lão Da Xá
(Yasha) ra khỏi cộng đồng với nhiều lời buộc tội ngài. Họ đã đề nghị mười
điểm thay đổi như sau—The orthodox monks said that nothing should be
changed, while the monks of the Vajji from Vaisali expelled Yasha from the
community because of his accusations. They insisted on modifying some
rules as follows:
1) Cho
phép đựng muối trong sừng trâu hay các đồ chứa bằng sừng: Singilonakappa
(p)—Gián tiếp cho phép sát sanh để lấy sừng, trong khi phái chính thống
cho rằng việc mang muối đựng trong cái sừng rỗng bị coi như phạm giới cấm
Ba Dật Đề thứ 38, về việc cấm tồn trữ thực phẩm và giới sát sanh—Allowing
monks and nuns to store salt in buffalo’s horns, while the orthodox monks
considered carrying salt in a hollowed horn. This practice is contrary to
Pacittiya 38, which prohibits (forbids) the storage of food and killing.
2) Buổi
trưa khi mặt trời đã qua bóng hai ngón tay vẫn ăn được: Dvangulakappa
(p)—Vẫn được phép ăn sau giờ ngọ. Việc nầy coi như bị cấm trong Ba Dật Đề
thứ 37 về giới không được ăn sau giờ ngọ—Allowing monks and nuns to eat in
the afternoon: The practice of taking meals when the shadow is two fingers
broad. This practice against Pacittiya 37 which forbids the taking of food
after midday.
3) Được
đi qua một làng khác ăn lần thứ hai: Gamantarakappa (p)—Sau khi ăn rồi,
đi đến nơi khác vẫn ăn lại được trong cùng một ngày. Việc làm nầy coi như
bị cấm trong Ba Dật Đề thứ 35 về giới cấm ăn quá nhiều—Allowing monks and
nuns to eat the second time in a day: The practice of going to another
village and taking the second meal there on the same day. This practice
forbids in Pacittiya 35 which forbids over-eating.
4) Cho Bố
tát ở riêng trong một khu: Avasakappa (p & skt)—Thực hiện nghi thức Bố Tát
(Uposatha) tại nhiều nơi trong cùng một giáo khu. Điều nầy trái với các
giới luật Mahavagga về sự cư trú trong một giáo khu—Allow retreats for
spiritual refreshment in a private place: The observance of the Uposatha
ceremonies in various places in the same parish. This practice contravenes
the Mahavagga rules of residence in a parish (sima).
5) Được
phép hội nghị với thiểu số: Anumatikappa (p).
a) Dù
không đủ số quy định như tam sư thất chứng, hội nghị vẫn có hiệu lực như
thường—Allowing ordination to proceed even though there are not enough
three superior monks and seven witnesses (see Tam Sư Thất Chứng).
b) Được
phép yêu cầu chấp nhận một hành động sau khi đã làm. Đây là vi phạm kỹ
luật—Obtaining sanction for a deed after it is done. This also amounts to
a breach of monastic discipline.
6) Cho
làm theo các tập quán trước: Acinakappa (p)—Đây cũng là vi phạm kỹ
luật—Allowing monks and nuns to follow their customs and habits (customary
practices and precedents): This is also opposed to the rules.
7) Cho
uống các loại sữa sau bữa ăn: Amathitakappa (p)—Cho phép uống các loại sữa
dù chưa được lọc. Điều nầy trái với Ba Dật Đề thứ 35 về luật ăn uống quá
độ—Allowing monks and nuns to drink unrefined milk after the meal. This
practice is in contravention of Pacittiya 35 which prohibits over-eating.
8) Được
uống rượu mạnh hòa với đường và nước nóng: Jalogim-patum (p)—Việc làm nầy
trái với Ba Dật Đề thứ 51, cấm uống các chất độc hại—Allow monks and nuns
to drink the drinking of toddy. This practice is opposed to Pacittiya 51
which forbids the drinking of intoxicants.
9) Được
ngồi tự do khắp nơi: Adasakam-nisidanam (p)
a) Được
phép ngồi các chỗ rộng lớn, không cần phải theo quy định ngày trước của
Đức Phật—Allowing monks and nuns to sit down wherever they like to, not to
follow rules set forth by the Buddha before.
b) Được
dùng tọa cụ không có viền tua. Việc nầy trái với Ba Dật Đề thứ 89, cấm
dùng tọa cụ không có viền—Allow using a rug which has no fringe. This is
contrary to Pacittiya 89 which prohibits the use of borderless sheets.
10) Được giữ
vàng bạc: Jataruparajatam (p)—Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni được phép cất giữ vàng
bạc, cũng như được nhận vàng bạc từ đàn na tín thí. Điều nầy trái với giới
luật thứ 18 trong Nissaggiya-pacittiya—Allowing monks and nuns to store
gold and silver, and they are allowed to accept gold and silver. This
practice is forbidden by rule 18 of the Nissaggiya-pacittiya.
(C)
Đại Đức Da Xá công khai tuyên bố những việc làm nầy là phi pháp.
Sau khi nghe phái Bạt Kỳ phán xử khai trừ mình ra khỏi Tăng Đoàn, Da Xá
(Yasha) liền đi đến Kausambi để tìm kiếm sự bảo hộ của các nhà sư có thế
lực trong các vùng mà Phật giáo bắt đầu phát triển (Avanti ở phía tây và ở
miền nam). Da Xá mời họ họp lại và quyết định để ngăn chận sự bành trướng
của việc chà đạp đạo giáo và bảo đảm việc duy trì luật tạng. Sau đó Da Xá
đi đến núi A Phù, nơi trưởng lão Tam Phù Đà đang sống để trình lên trưởng
lão mười điều đề xướng của các tu sĩ Bạt Kỳ. Da Xá yêu cầu trưởng lão Tam
Phù Đà xem xét tánh cách nghiêm trọng của vấn đề. Trong khoảng thời gian
nầy có sáu mươi vị A La Hán từ phương Tây đến và họp lại tại núi A Phù,
cũng như tám mươi tám vị khác từ Avanti và miền Nam cũng gia nhập với họ.
Các vị nầy tuyên bố đây là vấn đề khó khăn và tế nhị. Họ cũng nghĩ đến
trưởng lão Ly Bà Đa ở Soreyya, vốn là người nổi tiếng uyên bác và từ tâm.
Nên họ quyết định cùng nhau đến gặp trưởng lão để xin sự hỗ trợ của
ngài—The Venerable Yasha openly declared these practice to be unlawful.
After the sentence of excommunication had been passed on him, he then went
to Kausambi to seek support from influential monks in all areas to which
Buddhism had spread (the western country of Avanti and of the southern
country). He invited them to assemble and decide the question in order to
stop the growth of irreligion and ensure the preservation of the Vinaya.
Next, he proceeded to Mount Ahoganga where Sambhuta Sanavasi dwelt to show
him the ten thesis advocated by the Vajjian monks. He asked the venerable
to examine the question in earnest. About the same time, some sixty Arhats
from the Western Country and eighty-eight from Avanti and the Southern
Country came to assemble on Mount Ahoganga. These monks declared the
question to be hard and subtle. They thought of the Venerable Revata who
was at Soreyya and was celebrated for his learning and piety. So they
proposed to met him and enlist his support. After a good deal of
travelling they met the Venerable Revata at Sahajati. On the advice of
Venerable Sambuta Sanavasi, Yasha approached the Venerable Revata and
explained the issue to him. One by one, Bhikshu Yasha brought up the ten
points and asked for his opinion. Each one of them was declared to be
invalid by the Venerable Revata.
(D)
Trong khi đó, các tu sĩ Bạt Kỳ cũng chẳng ngồi yên. Họ cũng đến Câu
Xá Di để xin được trưởng lão Ly Bà Đa ủng hộ. Họ dâng cho ông nhiều lễ vật
hậu hỷ nhưng đều bị ông từ chối. Họ lại dụ dỗ được đệ tử của ông là Đạt Ma
thỉnh cầu dùm họ, nhưng trưởng lão vẫn một mực chối từ. Trưởng lão Ly Bà
Đa khuyên họ nên trở về Tỳ Xá Ly là nơi xuất phát vấn đề để mở ra cuộc
tranh luận: Meanwhile, the Vajjian monks were not idle. They also went to
Sahajati in order to enlist the support of the Venerable Revata. They
offered him a lot of presents, but he refused with thanks. They also
induced his disciple, Uttara, to take up their cause, but he failed. At
the suggestion of Revata, the monks proceeded to Vaisali in order to
settle the dispute at the place of its origin.
(E)
Cuối cùng, nghị hội Vaisali tập hợp 700 nhà sư, tất cả đều là A La
Hán, còn gọi là hội nghị các trưởng lão. Tỳ Kheo A Dật Đa được chỉ định
làm người tổ chức. Trưởng lão Sabbakhami được bầu làm chủ tịch ủy ban.
Từng điểm một của mười điều cho phép của phái Bạt Kỳ được xem xét kỹ càng.
Vì thấy 10 điều thay đổi trên hoàn toàn vô lý nên một phán quyết của hội
nghị đồng thanh tuyên bố việc làm của các nhà sư Bạt Kỳ là phi pháp. Kết
quả là các nhà sư Bạt kỳ ở Tỳ Xá Ly (Vaisali) đã bị một ủy ban gồm bốn nhà
sư thuộc cộng đồng phương tây và bốn vị thuộc cộng đồng phương đông coi
là có tội. Họ đều chấp nhận sự phán quyết mà không phản kháng. Những thầy
tu vi phạm giới luật coi như đã không tôn trọng luật chính thống và đã bị
khiển trách tùy theo lỗi lầm. Do đó giới luật trong lần kết tập nầy hầu
như không thay đổi. Trong văn bản tiếng Pali và Sanskrit của Luật Tạng đều
có kể lại hội nghị nầy: Finally a council composed of 700 monks, all
arhats, also called the Council of the Theras. Bhikshu Ajita was appointed
the seatregulator. The Venerable Sabbakami was elected president. The ten
points were examined carefully one by one. After seeing these above ten
changes were so unreasonable. The unanimous verdict of the assembly
declared the conduct of the Vajjian monks to be unlawful. As a result,
they (Vajjian monks of Vaisali) were found guilty by a committee composed
of four monks from eastern and four from western regions, respectively.
The Vaisali monks accepted this judgment without any opposition. The
erring monks were declared in violation of the orthodox code of discipline
and censured accordingly. Thus, in this council, rules of monastic
discipline have remained virtually unchanged. Records of this council are
found in both the Pali and Sanskrit versions of the Vinaya-Pitaka.
(F)
Nghị Hội lần thứ hai đánh dấu sự phân phái giữa phe bảo thủ và phe
tự do. Người ta kể lại, nhóm sư Bạt Kỳ đã triệu tập một Hội Nghị khác có
mười ngàn tu sĩ tham dự với tên là Đại Chúng Bộ. Vào thời đó, dù được gọi
là Đại Chúng Bộ, nhưng chưa được biết là Đại Thừa: The Second Council
marked a division between the conservative and the liberal. It is said
that Vajjian monks of Vaisali held another Council which was attended by
ten thousand monks. It was called The Great Council (Mahasangiti). Even
though it was called Mahasanghika, it was not yet known as Mahayana at
that time).
(III)
Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Ba—The Third Council: Hội nghị
thứ ba được tổ chức tại thành Hoa Thị dưới sự bảo trợ của vua A Dục, một
Phật tử tại gia nổi tiếng—The Third Council was held at Pataliputra,
sponsored by King Asoka, a celebrated Buddhist layman.
(A) Nguyên
nhân đưa đến Hội Nghị—Reasons for the Third Concil:
a) Một
nhà sư thuộc thành Hoa Thị tên là Đại Thiên đưa ra luận điểm cho rằng một
vị A La Hán có thể để cho mình bị cám dỗ, nghĩa là có những sự xuất tinh
ban đêm và không trừ bỏ được sự ngu si cũng như những nghi ngờ về giáo
thuyết. Cuối cùng A La Hán có thể tiến bước theo con đường giải thoát,
theo Đại Thiên, nhờ ở một sự giúp đở bên ngoài và nhờ gia tăng khả năng
tập trung, do đó những cơ may cứu rỗi của người đó là nhờ ở việc lặp đi
lặp lai một số âm thanh. Những ý kiến khác nhau về những luận điểm ấy dẫn
tới sự phân chia các sư thành hai phe: A monk from Pataliputra, Mahadeva,
put forward the following position: An arhat is still subject to
temptation, that is, he can have nocturnal emissions. He is not yet free
from ignorance. In addition, he is still subject to doubts concerning the
teaching. Moreover, according to according to Mahadeva’s view, an arhat
can make progress on the path to enlightenment through the helpof others
and, through the utterance of certain sounds, he can further his
concentration and thus advance on the path. Differing views on these
points led to division of the monks into two camps.
b) Tự cho
mình đông hơn, những người bảo vệ những luận điểm của Đại Thiên tự gọi
mình bằng cái tên Mahasanghika hay cộng đồng lớn, còn những đối thủ của
họ, do những người “Cũ” đại diện, đó là những vị nổi bậc về đại trí và đại
đức, thì tự gọi mình là “Sthavira”: Those who affirmed these points of
Mahadeva’s, and who believed themselves to be in the majority, called
themselves Mahasanghika or Great Community. Their opponents, represented
by the “elders,” who were distinguished by outstanding wisdom and virtue,
called themselves Sthavira.
c) Với
việc vua A Dục đi theo đạo Phật, nhiều tu viện nhanh chóng phát triển về
mặt vật chất và các tu sĩ có một đời sống đầy đủ dễ chịu hơn. Nhiều nhóm
dị giáo đã bị mất nguồn thu nhập nên ngã theo Phật giáo. Tuy nhiên, dù
theo đạo Phật, nhưng họ vẫn giữ tín ngưỡng, cách hành trì, cũng như thuyết
giảng giáo lý của họ thay vì giáo lý đạo Phật. Điều nầy khiến cho trưởng
lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đau buồn vô cùng, nên ông lui về ở ẩn một nơi
hẻo lánh trong núi A Phù suốt bảy năm. Số người dị giáo và tu sĩ giả hiệu
ngày một đông hơn những tín đồ chân chánh. Kết quả là trong suốt bảy năm
chẳng có một tự viện nào tổ chức lễ Bố Tát hay tự tứ. Cộng đồng tu sĩ sùng
đạo từ chối không chịu làm lễ nầy với những người dị giáo. Vua A Dục rất
lo lắng về sự xao lãng nầy của Tăng chúng nên phải ra lệnh thực hiện lễ Bố
Tát. Tuy nhiên, vị đại thần được nhà vua giao phó nhiệm vụ nầy đã gây ra
một vụ thảm sát đau lòng. Ông ta hiểu sai mệnh lệnh nhà vua nên đã chặt
đầu những tu sĩ không chịu thực hiện lệnh vua. Hay tin nầy, vua rất đau
lòng. Ngài đã cho thỉnh trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu về để tổ chức
hội nghị: With the conversion of King Asoka, the material prosperity of
the monasteries grew by leaps and bounds and the monks lived in ease and
comfort. The heretics who had lost their income were attracted by these
prospects to enter the Buddhist Order. They continued, however, to adhere
to their old faiths and practices and preached their doctrines instead of
the doctrines of the Buddha. This caused extreme distress to Thera
Moggaliputta-Tissa who retired to a secluded retreat on Mount Ahoganga and
stayed there for seven years. The number of heretics and false monks
became far larger than that of the true believers. The result was that for
seven years no Uposatha or retreat (Pavarana) ceremony was held in any of
the monasteries. The community of the faithful monks refused to observed
these festivals with the heretics. King Asoka was filled with distress at
this failure of the Sangha and sent commands for the observance of the
Uposatha. However, a grievous blunder was committed by the Minister who
was entrusted with this task. His misunderstood the command and beheaded
several monks for their refusal to carry out the King’s order. When this
sad news reported to Asoka, he was seized with grief and apologized for
this misdeed. He then invited Maggaliputta Tissa to hold the Third
Council.
d) Do đó
mà Hội Nghị thứ ba được tiến hành với nhu cầu thanh khiết hóa Phật pháp
đang lâm nguy do sự xuất hiện của nhiều hệ phái khác nhau với những luận
điệu, giáo lý và cách hành trì đối nghịch nhau: Thus the Third Council was
held by the need to establish the purity of the Canon which had been
imperilled by the rise of different sects and their rival claims,
teachings and practices.
(B) Thấy thế
vua A Dục cho tổ chức Đại Hội kết tập kinh điển lần thứ ba tại thành Ba
Tra Lợi Phất (Hoa Thị Thành, thủ đô cổ của Tích Lan), khoảng vào thế kỷ
thứ ba trước Tây Lịch. Vua A Dục đã đích thân chọn 60.000 vị Tỳ Kheo tham
dự Hội Nghị. Trong khi đó trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đã phụng mệnh
vua A Dục chọn ra một ngàn vị Tăng tinh thông tam tạng kinh điển kết tập
chánh pháp. Hội nghị đã bàn thảo trong chín tháng về những ý kiến dị biệt
giữa những Tỳ Kheo của nhiều phái khác nhau. Tại Đại Hội nầy, sự khác biệt
không chỉ hạn hẹp trong Giới Luật, mà cũng liên quan đến Giáo Pháp nữa.
Đây không phải là một hội nghị toàn thể mà chỉ là một cuộc nhóm họp nhỏ
thôi. Lúc kết thúc Hội Nghị, ngài Mục Kiền Liên Tư Đế Tu (see Mục Kiền
Liên Tư Đế Tu), đã tổng hợp vào một cuốn sách gọi là Thuyết Sự Luận
(Kathavatthupakarana), bác bỏ những quan điểm và lý thuyết dị giáo cũng
như những sai lầm của một số giáo phái. Giáo lý được phê chuẩn và chấp
thuận bởi Đại Hội được biết là Theravada hay Nguyên Thủy. Vi Diệu Pháp
được bao gồm trong Đại Hội nầy—Seeing this division, King Asoka organized
the Third Council (in the Third Century B.C.) at Pataliputra, the old
capital of Ceylon. King Asoka himself assigned 60,000 monks to participate
in this Council. To obey the order of king Asoka, Thera Tissa thereafter
elected a thousand monks who were well versed in the three Pitakas to make
a compilation of the true doctrine. The Council lasted for nine months to
discuss the different opinion among the Bhiksus of different sects. At
this Council the differences were not confined to the Vinaya but also
connected with the Dharma. This was not a general Council, but rather a
party meeting. At the end of this Council, the President of the Council,
Moggaliputtra-Tissa, compiled a book called the Kathavatthu refuting the
heretical, false views and theories held by some sects. The teaching
approved and accepted by this Council was known as Theravada. The
Abhidharma Pitaka was included at this Council.
·
Bố Tát Thuyết Giới: Upavasatha-Sila.
·
Kết Tập Tam Tạng Kinh, Luật, Luận: Tripitaka, Sutra, Vinaya,
and Abhidharma.
(C) Một trong
những thành quả quan trọng của Hội Nghị lần thứ ba là nhiều phái đoàn
truyền giáo đã được gởi đi khắp các xứ để hoằng dương Phật pháp. Sau Đại
Hội kết tập lần thứ ba, người con của Vua A Dục, ngài Hòa Thượng
Mahinda,và người con gái tên Tăng Già Mật Đa, đã mang Tam Tạng Kinh Điển
đến Sri-Lanka, cùng với những lời bình luận của Hội Nghị nầy. Họ đã đạt
được thành công rực rỡ tại đảo quốc nầy. Những kinh điển được mang về
Sri-Lanka vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay không mất một trang nào. Những
kinh điển nầy được viết bằng chữ Pali, căn cứ vào ngôn ngữ của xứ Ma Kiệt
Đà là ngôn ngữ của Đức Phật. Chưa có gì gọi là Đại Thừa vào thời bấy giờ.
Ngoài ra, qua những chỉ dụ của vua A Dục, chúng ta được biết thêm về những
phái đoàn truyền giáo Phật giáo được nhà vua cử đi đến các nước xa xôi ở Á
Châu, Phi Châu và Âu Châu. Phật giáo đã trở thành một tôn giáo quan trọng
của nhân loại phần lớn là nhờ ở các hoạt động của phái đoàn nầy—One of
the important results of thei Council was the dispatch of missionaries to
different countries of the world for the propagation of Buddhism. After
the Third Council, Asoka’s son, Venerable Mahinda, and the king’s
daughter, Sanghamitta, brought the Tripitaka to Sri-Lanka, along with the
commentaries that were recited at the Third Council. They were
extraordinarily successful in this island. The texts brought to Sri-Lanka
were preserved until today without losing a page. The text were written in
Pali which was based on the Magadhi language spoken by the Buddha. There
was nothing known as Mahayana at that time. Besides, from the edicts of
king Asoka, we know of various Buddhist missions he sent to far-off
countries in Asia, Afirca, and Europe. It is to a large extent due to
these missionary activities that Buddhism became one of the most important
religions of mankind.
(D) Sự xuất
hiện của Đại Thừa—Coming of Mahayana: Giữa thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch
và thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, hai từ Đại Thừa và Tiểu Thừa xuất hiện
trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, Đại Thừa
được định nghĩa rõ ràng. Ngài Long Thọ triển khai triết học “Tánh Không”
của Đại Thừa và chứng minh tất cả mọi thứ đều là “Không” trong một bộ luận
ngắn gọi là Trung Quán Luận. Vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, hai
ngài Vô Trước và Thế Thân viết nhiều tác phẩm về Đại Thừa. Sau thế kỷ thứ
nhất sau Tây Lịch, những nhà Phật giáo Đại Thừa giữ vững lập trường rõ
ràng nầy, từ đó hai từ Đại Thừa và Tiểu Thừa được nói đến. Chúng ta không
nên lẫn lộn Tiểu Thừa với Nguyên Thủy, vì hai từ nầy hoàn toàn khác nhau.
Nguyên Thủy Phật Giáo nhập vào Sri-Lanka vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch,
lúc chưa có Đại Thừa xuất hiện. Phái Tiểu Thừa xuất hiện tại Ấn Độ, có một
bộ phận độc lập với dạng thức Phật Giáo tại Sri-Lanka—Between the First
Century B.C. to the First Century A.D., the two terms Mahayna and Hinayana
appeared in the Saddharma Pundarika Sutra or the Sutra of the Lotus of
Good Law. About the Second Century A.D. Mahayana became clearly defined.
Nagajuna developed the Mahayana philosophy of Sunyata and proved that
everything is void in a small text called Madhyamika-karika. About the
Fourth Century, there were Asanga and Vasubandhu who wrote enormous amount
of works on Mahayana. After the First Century A.D., the Mahayanists took a
definite stand and only then the terms of Mahayana and Hinayana were
introduced. We must not confuse Hinayana with Theravada because the terms
are not synonymous. Theravada Buddhism went to Sri-Lanka during the Third
Century B.C. when there was no Mahayana at all. Hinayana sects developed
in India and had an existent independent from the form of Buddhism
existing in Sri-Lanka.
(IV)
Hội Nghị lần thứ tư—The Fourth Council:
(A)
Hội nghị nầy dường như chỉ là hội nghị của một phái, phái
Sarvastivadin, hơn là một hội nghị chung thật sự—The fourth council seems
also to have been the synod of a particular school, the Sarvastivadins,
more than a general council.
(B)
Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp
Di La (Kashmir) khoảng năm 70 trước Tây Lịch, dưới sự tổ chức của Vua Ca
Nị Sắc Ca (Kanishka), nhưng lần nầy chỉ có sự tham dự bởi phái Nhất Thiết
Hữu Bộ, chứ không được phái Nguyên Thủy thừa nhận (Sau thời vua A Dục
khoảng 300 năm tức là vào khoảng năm 70 trước Tây Lịch, miền tây bắc Ấn Độ
có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka), rất kính tin Phật pháp, thường thỉnh chư
Tăng vào triều thuyết pháp. Vì thấy pháp không đồng và luật lệ của nhóm
nầy khác với nhóm kia, nên vua bèn chọn 500 Tăng sĩ kiến thức uyên bác, và
triệu thỉnh ngài Hiếp Tôn Giả (Parsvika) tổ chức hội nghị kết tập kinh
điển lần thứ tư. Hội nghị đề cử Thượng Tọa Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ
tọa, còn ngài Mã Minh được mời từ Saketa đến để soạn thảo Luận Thư
(commentaries) đồng thời là Phó chủ tọa, địa điểm là tịnh xá Kỳ Hoàn ở Ca
Thấp Di La (Kashmir). Mục đích kỳ kết tập nầy là giải thích rõ ràng ba
tạng kinh điển, gồm 300.000 bài tụng. Sau đó chế ra bản đồng, đúc chữ in
lại tất cả, cho xây bửu tháp để tàng trử kinh điển. Không phải như ba lần
kết tập trước, lần nầy nghĩa lý kinh điển được giải thích rõ ràng. Tuy
nhiên, ngài Hiếp Tôn Giả Parsvika) là một vị đại học giả về Hữu Bộ, vua Ca
Nị Sắc Ca (Kanishka) cũng tin theo Hữu Bộ, nên sự giải thích trong lần kết
tập nầy đều y cứ vào “Nhất Thế Hữu Bộ (Sarvastivadah).” Chủ đích của Hội
Nghị là phân tích lại một phần Vi Diệu Pháp nhằm ngăn ngừa một số khuynh
hướng cải cách bên trong cộng đồng. Nhiều nguồn tin cho biết có sự tham dự
của 500 vị A La Hán và 600 vị Bồ Tát tại hội nghị nầy. Nghị Hội được triệu
tập theo sự đề xuất của một cao tăng uyên thâm Phật pháp là Hiếp Tôn Giả.
Ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tịch Hội Nghị, trong khi ngài Mã Minh
được mời đến từ Saketa, làm Phó chủ tọa, và cũng là người lo biên soạn
quyển Mahavibhasa, một quyển bình giải về Vi Diệu Pháp. Hội Nghị nầy chỉ
giới hạn trong việc kết tập những lời bình. Có vẻ như là chủ thuyết nào
tranh thủ được sự đồng ý rộng rãi nhất thì được chú ý nhất. Mà dường như
các tu sĩ của trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ chiếm đa số. Và rất có thể là
các chi nhánh quan trọng của trường phái Sarvastivada gồm những hệ phái
không chính thống cũng đã tham dự với số lượng khá đông. Không có chứng cớ
là Phật giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã tham dự. Tuy nhiên, do sự bành
trướng quan trọng sau đó của phong trào Sarvastivadin, người ta thừa nhận
hội nghị nầy có tầm quan trọng chung như một Đại Hội Kết Tập Kinh Điển
Phật Giáo—The fourth Great Council was held around 70 B.C. in Kashmir
under the patronage of King Kanishka, but as the doctrine promulgated were
exclusively Sarvastivada school. It is not recognized by the Theravada.
The Council was held to discuss new interpretation of part of the
Abhidharma that was intended to forestall reformatory tendencies.
According to various sources, this Council was attended by 500 arhats as
well as 600 Bodhisattvas. King Kanishka summoned this Council at the
instigation of an old and learned monk named Parsva. The principal role is
ascribed to Vasumitra, while Asvaghosa, who was invited from Saketa to
help supervised the writing of the Mahavibhasa, a commentary on the
Abhidharma. There is no evidence that Mahayana Buddhism was represented in
this Council. However, because of the great importance later attained by
the Sarvastivadins, this synod came to be evaluated as a Council having
general authority.
·
Mười muôn (100.000) bài tụng để giải thích Kinh Tạng: Sutra
Pitaka.
·
Mười muôn bài tụng để giải thích Luật Tạng: Vinaya Pitaka.
·
Mười muôn bài tụng để giải thích Luận Tạng: Hiện nay vẫn còn
200 quyển A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận do Ngài Huyền Trang
dịch—Abhidharma Pitaka.
·
See Ca Ni Sắc Ca in Vietnamese-English Section.
(V) Đại hội
kết tập kinh điển lần thứ năm được vua Mindon của Miến Điện tổ chức năm
1871 (Buddhist year 2414). Người ta nói có khoảng 2.400 tu sĩ có học vấn
cùng các giáo sư tham dự. Các trưởng lão Jagarabhivamsa, Nirindabhidhaja
và Sumangala Sami luân phiên chủ trì hội nghị. Công việc kết tập và ghi
lại Tam Tạng kép dài trên năm tháng trong hoàng cung và kinh điển được
khắc vào 729 bản đá cẩm thạch và lưu trữ tại Mandalay. Điều đáng chú ý là
nhiều ấn bản khác nhau đã được xử dụng để đối chiếu trong hội nghị nầy:
The fifth council was held in 1871 at the instance of King Mindon of
Burma. It is said that about 2,400 learned monks and teachers participated
in the Council. The elders Jagarabhivamsa, Narindabhidhaja and Sumangala
Sami presided in turn. The recitation and recording of the Tripitaka on
marble continued for about five months in the royal palce and the Tipitika
was carved on 729 marble slabs and preserved at Mandalay. It should be
noted that various available editions of the Tripitaka were used for
comparison and references in this Council.
(VI)
Đại hội kết tập kinh điển lần thứ sáu được tổ chức tại Ngưỡng Quang, thủ
đô của Miến Điện vào năm 1954. Có khoảng 2500 Tỳ Kheo uyên bác trên khắp
thế giới (từ Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan, Népal, Cam Bốt, Thái Lan, Lào, và
Pakistan) tham dự, trong đó có khoảng năm trăm Tỳ Kheo Miến Điện, uyên
thâm trong việc nghiên cứu và hành trì giáo lý của Đức Phật, được mời đảm
nhận việc kiểm lại văn bản tam tạng kinh điển Pali. Hội nghị khai mạc năm
1954, và hoạt động liên tục đến ngày trăng tròn Vaisakha năm 1956, nghĩa
là trong dịp kỷ niệm 2.500 năm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn: The sixth
Great Council was held in Rangoon in 1954. About 2,500 learned bhikkhus of
the various countries of the world (from India, Burma, Ceylon, Nepal,
Cambodia, Thailand, Laos, and Pakistan), among which 500 bhikshus from
Burma, who were well versed in the study and practice of the teachings of
the Buddha, were invited to take the responsibility for re-examining the
text of the entire Pali canon. The Great Council was inaugurated in 1954,
was to go on till the completion of its task at the full moon of Vaiskha
in 1956, that is, 2,500th anniversary of the Buddha’s mahaparinirvana.
** Nhiều người cho rằng Đại Hội Kết Tập lần
thứ năm và sáu là không cần thiết vì Kinh Điển đã hoàn chỉnh mỹ mãn sau
lần kết tập thứ tư. Ngoài ra, còn có nhiều Hội Nghị khác ở Thái Lan và
Tích Lan, nhưng không được coi như là Nghị Hội đúng nghĩa—Many people
believed that the fifth and the sixth councils were not necessary because
after the Fourth Council, all Tripitaka scriptures were collected
satisfactorily. Besides, there were many other Councils in Thailand and
Ceylon, but they were not considered Councils in the true sense of the
term.
·
Hội nghị được triệu tập dưới triều vua Devanampiya Tissa
(247-207 trước Tây Lịch). Hội nghị được chủ tọa bởi tôn giả Arittha. Hội
nghị nầy được tổ chức sau khi phái đoàn truyền giáo của Hòa Thượng Ma Thẩn
Đà, con vua A Dục, đến Tích Lan. Theo lời kể thì có sáu vạn A La Hán tham
dự. Thượng Tọa Arittha (người Tích Lan, đại đệ tử của Ma Thẩn Đà thuộc
dòng Thera Simhala) tuyên đọc Pháp điển: A Council was held during the
reign of King Devanampiya Tissa (247-207 B.C.) under the presidentship of
Venerable Arittha Thera. This Council was held after the arrival in the
island of Buddhist missionaries, headed by Thera Mahinda, a son of Emperor
Ashoka. According to tradition, sixty thousand Arhats took part in the
assembly. Venerable Thera Arittha, a Simhalese Bhikshu, a great disciple
of Thera Mahinda in the line of Simhalese Theras, recited the Canon.
·
Theo Sangitisamva thì một Hội Nghị được triệu tập dưới triều
vua Mahanama vào năm 516 Phật Lịch. Trong hội nghị nầy chỉ có các bài luận
giải được dịch từ tiếng Simhala (Tích Lan) ra tiếng Ma Kiệt Đà (pali) bởi
tôn giả Bhadhanta Busshaghosa: As mentioned in the Sangitivamsa, another
Council was held during the reign of King Mahanama in 516 Buddhist
calendar in which only the commentaries were translated from Sinhalese
into Magadhi (Pali) by Bhadanta Buddhaghosa.
·
Một hội nghị khác diễn ra tại Sri-Lanka vào năm Phật Lịch
1587 dưới triều vua Parakramabahu. Hội nghị nầy diễn ra trong hoàng cung
và kéo dài một năm. Các đại trưởng lão tuyên tụng lại luận tạng của các
Đại Trưởng Lão dưới sự chủ trì của tôn giả Đại Ca Diếp: Another Council
was held in 1587 Buddhist Calendar in the reign of King Parakramabahu. The
conference took place in the royal palce and lasted for one year. The
Council was presided by Venerable Mahakapsyapa, and it is said to have
revised only the commentaries of the tripitaka of the Mahatheras.
·
Một Hội Nghị khác đã diễn ra tại Thái Lan trong khoảng những
năm 2000 hay 2026 Phật Lịch, và kéo dài một năm. Nhằm xây dựng Phật giáo
trên một nền tảng vững chắc, vua Sridharmacakravarti Tilaka Rajadhiraja,
vị vua trị vì miền Bắc Thái Lan, đã triệu tập hội nghị nầy tại Chieng-Mai,
lúc đó là kinh đô nước này: Another Council took place in Thailand either
in 2,000 or in 2,026 Buddhist Calendar, and it lasted for one year. In
order to establish Buddhism on a firm basis, King Sridharmacakravarti
Tilaka Rajadhiraja, the ruler of Northern Thailand called this Council in
Chieng-Mai, his capital.
·
Một hội nghị khác ở Thái Lan, diễn ra vào năm 2331 Phật
Lịch, sau một cuộc chiến tranh giữa Thái Lan và một nước láng giềng. Kinh
đô cũ của Thái là Ayuthia bị thiêu rụi và nhiều bộ sách cùng tam tạng cũng
ra tro. Lại thêm Tăng chúng bị rối loạn và đạo đức sa sút vì tình trạng
thù địch kéo dài. Thế nên vua Rama I cùng hoàng đệ của ông triệu tập hội
nghị để lấy lại niềm tin của mọi người. Dưới sự bảo trợ của vương triều,
có 218 trưởng lão và 32 học giả cư sĩ họp lại làm việc liên tục trong một
năm để kết tập bộ tam tạng: Another Council was held in Thailand in 2331
Buddhist Calendar. After a war with its neighboring country, the old
capital Ayuthia was destroyed by fire and many books and manuscripts of
the Tripitaka were reduced to ashes. Moreover, the Sangha was disorganized
and morally weakened by reason of prolonged hostility. Thus, King Rama I
and his brother called for a Buddhist Council to restore the faith from
everyone. Under the royal patronage, 218 elders and 32 lay scholars
assembled together and continued the recitation of the Tripitaka for about
a year.
Kết Thán: Tán thán phần kết của
bài kinh hay đoạn kinh—A sigh of praise at the close of a passage of a
sutra.
Kết Thân: To join by marriage.
Kết Thúc: See Kết luận.
Kết Tóc Xe Tơ: To get married.
Kết Trụ: Làm dấu kim cang ái
trụ, như dấu hiệu của Đức Tỳ Lô Giá Na để kiểm soát quỷ thần—Đây là một
phương pháp của Mật Tông—To make the sign of the Vajra armour and helmet,
i.e. of Vairocana, in order to control the spirits—A method of the
esoteric sects.
Kêu Án: To convict—To
sentence—To condemn.
Kêu Ca: To complain.
Kêu Cứu: To call (cry) for
help.
Kêu La: To yell—To shout.
Kêu Na: To beseech.
Kêu Oan: To claim one’s
innocence.
Kêu Rêu: To backbite.
Kêu Van: See Kêu nài.
Kích Bác: To criticize—To find
fault with.
Kiêm: Cả hai—Both—Also.
Kiêm Đản Đối Đới: Bốn thời kỳ
đầu của giáo thuyết Phật Đà được tông Thiên Thai định nghĩa là Kim Đản Đối
Đới (bốn thời kỳ nầy đều nói về tướng)—The first four of the five periods
of Buddha’s teaching defined by the T’ien-T’ai sect.
1) Kim:
Thời Hoa Nghiêm nói về Viên Giáo và Biệt Giáo—Combined teaching, including
the complete and differentiating doctrines, the period of Avatamsaka
Sutra.
2) Đản:
Thời A Hàm chỉ nói về Tạng Giáo Tiểu Thừa—Sole, i.e. Hinayana only, that
of Agamas.
3) Đối:
Thời Phương Đẳng, bốn giáo Tạng Thông Biệt Viên được thuyết giảng đối
chiếu với nhau—Comparative, all four forms of doctrines being compared,
the period of the Vaipulya Sutras.
4) Đới:
Thời Bát Nhã Viên giáo được hé mở để hoàn thiện những giáo thuyết ở Tạng
Thông Biệt—Inclusive, that of the Prajna, when the perfect teaching was
revealed as the fulfilment of the rest.
Kiêm Lợi: Cả hai cùng có lợi
(cả mình lẫn người đều được lợi lạc)—Mutual benefit; to benefit self and
others.
Kiếm:
1) Lưỡi
Kiếm: A sword (a two-edged sword).
2) Tìm
kiếm: To search for—To look for.
Kiếm Ba: Kampa or Bhukampa
(skt)—Chấn Địa Thiên—Deva of earthquakes.
Kiếm Chác: To make profit
Kiếm Chuyện: To find fault
with—To seek/pick a quarrel with.
Kiếm Lâm Địa Ngục: Asipattra
(skt)—Một trong mười sáu tiểu địa ngục, địa ngục rùng kiếm—One of the
sixteen small hells, the hell of the forest of swords, or sword-leaf
trees.
Kiếm Luân Pháp: Một hệ thống
kiếm xoay để hàng phục ma quân—A system of revolving swords for subduing
demons.
Kiếm Ma Xá Đề: Kiếm Ma Xá Đế.
1) Ma
quân: A spirit or demon.
2) Con đẻ
của dục vọng không kềm chế được: The ungovernable, son of Kama (Love and
Lust).
Kiếm Sơn: Kiếm Lâm Địa Ngục,
and Địa Ngục in Vietnamese-English Section.
Kiếm Thụ Địa Ngục: See Kiếm Lâm
Địa Ngục.
Kiềm Chế: To subdue—To master
one’s passions—To overcome.
Kiềm Chế Dục Vọng: To dominate
one’s passions.
Kiềm Hãm: To check—To control.
Kiềm Tỏa: To restrain—To bind.
Kiểm: To check—To revise.
Kiểm Duyệt: To
censor—Censorship.
Kiểm Soát: Samyama or Sannama
(p)—Control—Restraint—Self-control.
Kiểm Soát Các Căn:
Samyatendriyah (p)—Control of senses.
Kiểm Soát Và Quân Bình: Checks
and balances
Kiểm Tra: To examine—To
inspect.
Kiên:
1) Vai:
Shoulder.
2) Kiên
định: Drdha (skt)—Firm—Firmly fixed—Reliable.
Kiên Chí:
Persevering—Constant—Patient
Kiên Cố: Vững chắc không thay
đổi hay không bị lay chuyển—Firm and sure.
Kiên Cố Huệ: Trí huệ không gì
lay chuyển được—Strong in wisdom.
Kiên Cố Lâm: Rừng cây Sa La nơi
Đức Phật nhập diệt (vì rừng cây Sa La không hề tàn dù hạ hay dù đông nên
gọi là Kiên Cố Lâm)—The grove of Sala trees, in which Sakyamuni died.
Kiên Cố Ý: Ý chí vững chắc
không gì lay chuyển được—Firm-willed.
Kiên Cố Ý Bồ Tát: Kiên Cố Ý Bồ
Tát trong Thai Tạng Giới—Firm-Willed Bodhisattva in the Garbhadhatu.
Kiên Định: To be determined.
Kiên Gan: Persevering—Patient.
Kiên Hạ: Vai kề vai—Shoulder by
shoulder—One next to another.
Kiên Lao: Chỉ sự vững chắc của
đất—Firm and stable; that which is stable, the earth.
Kiên Lao Địa Thần: Còn gọi là
Kiên Lao Địa Thiên, hay Kiên Lao Địa Kỳ, tên của vị Nữ Thần Đại Địa, tức
là đất vững bền và Thần kiên cố—The earth-goddess, or deity, or spirit.
Kiên Mãn Bồ Tát: Dhrtiparipurna
(skt)—Vị Bồ Tát kiên cố viên mãn, về sau thành Phật hiệu là Hoa Túc An
Hành Phật—The firm and complete bodhisattva, who is to be Buddha
Padma-vrsabha-vikramin, attending on Padmaprabha.
Kiên Nhẫn: Persevering—Patient.
Kiên Pháp: Ba việc bảo đảm cho
những người tín tâm vào tái sanh (ý nói nếu quên đi thân mệnh, vứt bỏ của
cải thế tục mà tu đạo thì sẽ có được cái thân vô cực, cái mệnh vô cùng, và
cái tài vô tận)—The three things assured to the faithful in reincarnation.
1) Thân
tướng hảo: Người tu đạo sẽ được cái thân vô cực—A good body.
2) Trường
Thọ: Mệnh vô cùng—A long life.
3) Tài
sản vô biên: Tài vô tận—Boundless wealth.
Kiên Quyết: Firm—Determined.
Kiên Thân: See Kim Cang Thân.
Kiên Thệ Sư Tử: Sư Tử Kiên Thệ,
hay thệ nguyện xả thân của sư tử khi đã ngộ đạo. Đức Thích Ca Mâu Ni trong
tiền kiếp khi còn ở nhân vị đã nói về công đức của áo cà sa cho sư tử Kiên
Thệ lông vàng nghe. Nghe xong sư tử bèn thể nguyện xả thân—The firmly
vowing lion, i.e. Sakyamuni in a previous incarnation.
Kiên Thực: Kiên thật—Firm and
solid.
Kiên Thực Tâm: Tâm kiên thật
không gì có thể thay đổi hay lay chuyển được—Firm heart.
Kiên Trí:
1) Trí
huệ không có gì có thể thay đổi hay lay chuyển được: Firm knowledge or
wisdom.
2) Tên
của Kim Cang Thần: Name of Vajrapani—See Vajrapani in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kiên Trì: To persevere.
Kiên Tuệ: See Kiên Ý.
Kiên Ý: Sthiramati (skt)—Còn
gọi là Kiên Tuệ—Firm mind, also called firm wisdom.
1) Tâm ý
hay trí tuệ kiên cố không gì có thể thay đổi hay lay chuyển được: Firm
mind or wisdom.
2) Bồ Tát
Sa La Mạt Để, thuộc Phật Giáo Đại Thừa, xuất hiện sau khi Đức Phật nhập
diệt khoảng 700 năm: Name of Sthramati Bodhisattva, an early Indian monk
of the Mahayana, about 700 years after the Buddha’s nirvana.
3) Bồ Tát
Tất Xỉ La Mạt Để, soạn bộ Nhập Đại Thừa Luận: Sthiramati Bodhisattva who
composed The Commentaries on Entering Mahayana.
Kiến:
(A) Nghĩa
của Kiến—The meanings of “Kiến.”
1) Giáo
lý: Theory—Doctrine.
2) Kiến
lập:
·
Kiến lập cơ sở: To found—To set up—To establish—To build a
school, a market, a house, etc.
·
Kiến lập môn phái: To found or to set up a school of thought
or practice.
3) Kiến
Giải (thấy): Darsana (skt)—Nại Lạt Xả Nang—Suy nghĩ tìm tòi để hiểu rõ mà
chọn lựa (khẳng định sự lý, kể cả ý nghĩa chính đáng và không chính
đáng)—Seeing—Discerning—Views—Opinions—Judgment—Thinking—Reasoning—Discriminating—Selecting
truth.
4) Niềm
tin: Belief.
5) Thấy:
Seeing—Thấy bằng—Seeing by:
a) Cái
thấy của phàm phu—The seeing of ordinary people: Dassanam (p)—Darsana
(skt).
·
Quan sát: Observing.
·
Chú ý: Noticing.
·
Khảo sát: Examining.
·
Trầm ngâm suy tưởng: Contemplating.
b) Cái
thấy của bậc Thánh nhân—The seeing of saintly people: Darsayati
(p)—Drisdarsam (skt).
·
Thấy bằng trực tâm: Seeing with the mind.
·
Thấy bằng trực giác: Seeing by divine intuition.
(B) Phân Loại
Kiến—Categories of “Kiến.”—For more information, please see Nhị Kiến, Ngũ
Kiến Thô Thiển, Ngũ Kiến Vi Tế, Tà Kiến and Hữu Kiến.
Kiến Ái: Tất cả mọi mê hoặc về
lý như ngã kiến tà kiến, cũng như tất cả mọi mê hoặc về tham, sân, si đều
là gốc rễ của khổ đau phiền não—Views and desires are the root of all
suffering, i.e. the illusion that the ego is a reality and the consequent
desires and passions.
** For more information,
please see Kiến
Hoặc Tư Hoặc and Tam
Hoặc.
Kiến Chánh:
1) Thấy
đúng theo Chánh Pháp: Seeing correctly.
2) Tên
của một đệ tử Đức Phật, nghi ngờ về hậu thế: Name of a disciple of the
Buddha who doubted a future life.
Kiến Chánh Kinh: Một vị đệ tử
của Phật tên là Kiến Chánh, nghi ngờ về hậu thế. Nhân đó Phật đã đưa ra
nhiều thí dụ để bác bỏ những thiên kiến mê chấp (đoạn kiến và thường kiến)
của Tỳ Kheo Chánh Kiến—A Bodhisattva name “Correct Vision,” a disciple of
the Buddha who doubted a future life, to whom the Buddha is said to have
delivered the contents of the Correct Vision Sutra.
Kiến Chân: Tattva-dris
(skt)—Perceiving truth—Thấy được chân tánh tuyệt đối của vạn hữu—To behold
truth or ultimate reality.
Kiến Chấp: View-attachment.
Kiến Chí Bộ La: Kancipura
(skt)—Kiến Chí Thành—Kinh đô của Dravida, bây giờ là Conjevaram, khoảng
chừng 48 dậm về phía tây nam Madras—Capital of Dravida, the modern
Conjevaram, about 48 miles south-west of Madras.
Kiến Chính: See Kiến Chánh.
Kiến Chướng: Các loại tà kiến
dấy lên gây chướng ngại cho Bồ Đề Tâm—The obstruction of heterodox views
to enlightenment.
Kiến Đà Ca: Kanthaka (skt)—Ngựa
“kiền trắc” mà Thái tử Tất Đạt Đa đã cỡi ra khỏi kinh thành để xuất gia
(người ta nói con ngựa nầy là hóa thân của Đế Thích)—The horse on which
Sakyamuni rode when he left home.
Kiến Đại: Kiến tính bao trùm
khắp pháp giới, một trong thất đại như sắc tính bao trùm khắp pháp
giới—Visibility or perceptibility as one of the seven elements of the
universe.
Kiến Đạo:
1) Con
đường của sự thấy biết chân lý: Darsanamarga (skt)—Ditthimagga (p)—The
path of insight.
2)
Ditthapada (p)—Thấy được chân lý chấm dứt luân hồi sanh tử, như các bậc
Thanh Văn và Sơ Địa Bồ Tát (bậc đã thấy được chân lý)—Theory, the way or
stage of beholding the truth, i.e. that of the Sravakas and the first
stage of Bodhisattva (one who has seen the Truth).
** For more information,
please see Tam Đạo
(B).
Kiến Đế: Chứng ngộ chân lý—The
realization of correct views.
1) Bậc
Thánh chứng quả Dự Lưu trong Tiểu Thừa: The Hinayana stage of one who
entered the stream of holy living.
2) Bồ Tát
Kiến Địa trong Đại Thừa (trên bậc sơ địa): The Mahayana stage after the
first Bodhisattva stage.
Kiến Địa: Thấy được chân lý Tứ
Đế, vị thứ tư trong thập địa, tương đương với quả vị “Dự Lưu” trong Tiểu
Thừa—The stage of insight—The discernment of reality of the four Noble
Truths, the fourth in the ten stages of progress toward Buddhahood,
agreeing with the fruit of stream-entry of Hinayana.
** For more information,
please see Thập Địa
Bồ Tát Tam Thừa.
Kiến Điên Đảo: Mắt nhận biết
ngoại cảnh điên đảo hư ảo mà cho là thực, một trong ba điên đảo—To see
things upside down—To regard illusion as reality, one of the three
subversions (subverters).
** For more information,
please see Tam Điên
Đảo.
Kiến Độc: Chất độc hay sự độc
hại của tà kiến—The poison of wrong views.
Kiến Giải: Samakhya
(skt)—Comprehension—Understanding.
Kiến Hành: Rational
behaviour—See Ái Hành.
Kiến Hiệu: Effective.
Kiến Hoặc: Các loại phiền não
và cám dỗ khởi lên từ tà kiến—Perplexities or illusions and temptations
arise from false views or theories—Delusive views—Delusions of views.
Kiến Hoặc Tư hoặc: Ảo tưởng đưa
đến tà kiến—Illusory or misleading views and thoughts:
1) Kiến
Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt tà vạy, gây ra những mê
hoặc—Delusions in the visible world.
2) Tư
Hoặc: Lấy tình cảm mê chấp tham, sân, si, mà nghĩ cảm về vạn hữu trên thế
gian—Illusions in the mental or moral world.
** For more information,
please see Tam
Hoặc.
Kiến Huệ: Do sự tu tập thiền
định mà được phát trí tuệ về các thứ kiến chấp—The wisdom of right views,
arising from dhyana meditation.
Kiến Kết: Phiền não do tà kiến
gây ra khiến chúng sanh lăn trôi trong luân hồi sanh tử, một trong cửu
kết—The bond of heterodox views, which fastens the individual to the chain
of transmigration, one of the nine attachments.
** For more information,
please see Cửu Kết
and Cửu Phược.
Kiến Lập: Samaropa (skt).
·
Xây dựng—Thành lập—Sáng lập—To build—To establish—To
errect—To set up—To found a school, sect, thought or practice.
·
Sự khẳng định hay sự thiết lập lý trí, trái lại với đối lập:
Assertion, or theory-making. Samaropa stands against refutation (apavada).
Kiến Lập Trí:
Pratishthapikabuddhi (skt)—Cái trí nhờ đó một mệnh đề được thiết lập—The
intelligence whereby a proposition is set up.
Kiến Lậu: Ảo tưởng tà kiến cho
rằng những thứ giả hợp là có thật—The illusion of viewing the seeming as
real.
Kiến Nghị: Motion.
Kiến Phân Biệt: Drishtivikalpa
(skt)—Các thứ kiến giải dựa vào sự phân biệt nhị biên về hiện hữu –Views
based on the dualistic discrimination of existence.
Kiến Phật: Thấy báo thân và ứng
thân của Phật—Beholding Buddha—To see Buddha.
1) Hàng
phàm phu và nhị thừa, do cái biết phân biệt nên chỉ thấy được ứng thân của
Phật: Due to clinging to discrimination, ordinary people and Hinayana see
only the nirmanakaya or body of incarnation of the Buddha.
2) Bồ Tát
và Đại Thừa, không còn phân biệt nên thấy cả ứng thân và báo thân Phật:
Bodhisattvas and Mahayana, without clinging to discrimination, see both
the body of incarnation (nirmanakaya) and the spiritual body or body in
bliss (sambhogakaya) of the Buddha.
3) Những
người không có duyên lành (không trồng căn lành) ở kiếp trước không thấy
cả hai thứ ứng thân và báo thân: Those who did not cultivate good roots in
their past lives, see neither nirmanakaya nor sambhogakaya of the Buddha.
Kiến Phi Kiến: Những cái dễ
thấy dễ biết và những điều sâu sắc huyền diệu—The visible and the
invisible—Phenomenal and noumenal.
Kiến Phược: Phiền não do tà
kiến (cho những thứ giả hợp là có thật) gây ra, trói buộc con nguời vào
vòng sanh tử—The bond of the illusion of heterodox opinions which binds
men and robs them of freedom (mistaking the seeming for the real).
** For more information,
please see Cửu Kết
and Cửu Phược.
Kiến Quốc: To found (build up)
a state.
Kiến Sơ: Tên của một ngôi chùa
tọa lạc tại làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Bắc Việt Nam.
Theo Thiền Uyển Tập Anh và Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, chùa được
xây vào trước năm 820 bởi Thiền Sư Cẩm Thành người huyện Tiên Du. Trước
kia sư tu ở chùa Phật Tích, sau được một ông phú hộ họ Nguyễn mời về Kiến
Sơ lập chùa. Đến năm 820, bên Tàu là đời nhà Đường, có Thiền Sư Vô Ngôn
Thông, trụ trì chùa Hòa An, thuộc tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc, sang nước
ta, đến làng Phù Đổng, được Thiền Sư Cảm Thành tôn làm Thầy, mời ở lại trụ
trì chùa Kiến Sơ. Từ đó Kiến Sơ trở thành trung tâm của Thiền Phái Vô Ngôn
Thông. Hiện tại trong chùa vẫn còn tượng Lý Công Uẩn và mẹ ông ở hai bên
điện thờ Tam Bảo. Trong điện thờ Tổ có gác chuông với kiến trúc nổi bậc và
chiếc khánh bằng đá cổ, đường kính 2 mét 3, chiếu cao sáu tấc, bề dầy 17
phân. Kiến Sơ là một trong những ngôi chùa cổ của Việt Nam được xây cất
trước thế kỷ thứ 5, chùa đã được trùng tu nhiều lần—Name of a temple,
located in Phù Đổng village, Gia Lâm district, Hà Nội province, North
Vietnam. According to Thiền Uyển Tập Anh and Đại Nam Thiền Uyển Truyền
Đăng Lục, the temple was built before 820 by Ch’an Master Cẩm Thành from
Tiên Du district. He previously practised Buddhism at Phật Tích Pagoda,
then was requested by a rich landlord, whose last name was Nguyễn, to move
to Kiến Sơ temple and built it. In 820, during the T’ang dynasty, Ch’an
Master Wu Yun T’ung, Head of Hòa An Temple in Kuang-Chou province, in
China, arrived in Vietnam. He went to Phù Đổng village and later became
Ch’an Master Cẩm Thành’s teacher. He, then, was invited to stay and
appointed to be head of Kiến Sơ Temple. Since then, the temple has become
the center of the Wu-Yun-T’ung Sect. At present, the statues of Lý Công
Uẩn and his mother are placed on the left and right sides of the temple’s
Buddhist Trinity. Inside the Patriarch Hall is a remarkably architectural
bell tower and an old stone gong, 2.3 meters wide, 0.60 meter high, 0.17
meter thick, has still been kept in the temple. Kiến Sơ is one of the most
ancient temples in Vietnam which was constructed before the fifth century.
It has been rebuilt many times—See Cảm Thành.
Kiến Tâm Kiến Tánh: Seeing
(beholding) the Mind, beholding the Nature.
Kiến Tánh: Nhìn thấy được Phật
tánh hay nhìn thấy bản tánh thật của chính mình. Về mặt từ nghĩa, “kiến
tánh” và “ngộ” có cùng một ý nghĩa và chúng thường được dùng lẫn lộn với
nhau. Tuy nhiên khi nói về sự giác ngộ của Phật và chư tổ, người ta thường
dùng chữ “ngộ” hơn là “kiến tánh” vì ngộ ám chỉ một kinh nghiệm sâu hơn.
Đây là một câu nói thông dụng trong nhà Thiền—To behold the Buddha-nature
within oneself or to see into one’s own nature. Semantically “Beholding
the Buddha-nature” and “Enlightenment” have virtually the same meaning and
are often used interchangeably. In describing the enlightenment of the
Buddha and the patriarchs, however, it is often used the word
“Enlightenment” rather than “Beholding the Buddha-nature.” The term
“enlightenment” implies a deeper experience. This is a common saying of
the Ch’an (Zen) or Intuitive School.
Kiến Tánh Thành Phật: Thấy được
tự tánh và thành Phật—To see one’s own nature and become a Buddha—To
behold the Buddha-nature to reach the Buddhahood or to attain
enlightenment.
Kiến Tạo: To build—To errect—To
construct.
Kiến Thiết: See Kiến Tạo.
Kiến Thủ: Kiến chấp tà vạy, một
trong tứ thủ—Clinging to heterodox views, one of the four kinds of
clinging.
** For more information,
please see Tứ Thủ.
Kiến Thủ Kiến: Drstiparamasra
(skt).
·
Những tranh cãi do chấp vào ý kiến cố chấp vào thiên kiến
của mình, một trong ngũ Kiến—Wrong views caused by attachment to one’s own
erroneous understandings—To hold heterodox doctrines and be obsessed with
the sense of the self.
·
Kiến thủ kiến (khư khư bảo thủ ý kiến của mình)—Conservative
standpoint: Lối nầy là khuynh hướng của những người giữ lấy ý mình và
chống lại sự thay đổi. Không ý thức được sự sai quấy, mà vẫn giữ ý, không
thèm nghe người khác; hoặc vì tự ái hay vì cứng đầu ngang ngạnh cứ tiếp
tục giữ cái sai cái dở của mình. Chẳng hạn như ở Việt Nam người ta có thói
quen đốt giấy vàng mã theo phong tục của Trung Hoa trong đám tang. Kỳ
thật, đám tang theo nghi thức Phật giáo thật đơn giản. Thân bằng quyến
thuộc tề tựu về tụng Kinh A Di Đà để hộ niệm cho người chết thoát khổ.
Phật tử, nhất là chư Tăng Ni thích được hỏa táng hơn là địa táng vì cách
nầy vừa đở tốn kém lại vừa hợp vệ sinh hơn. Hơn nữa, theo thời gian đất
chôn sẽ tăng một cách đáng kể làm giảm đi đất dành cho sự canh tác và xây
cất các công thự tiện ích khác—That is the tendency of those who maintain
their point of view or resist and oppose change. For example, there are
some out-dated customs still practiced in Vietnam such as using Chinese
money papers and burning them at funeral ceremonies. In fact, Buddhist
funeral rites are simple. Relatives and friends recite the Amitabha Sutra
to help free the dead from suffering. Buddhists, especially monks and
nuns, prefer cremation to burial, since the first mode is more economic,
and hygienic than the second one. Moreover, with time, the burial grounds
would extend considerably, reducing thus the land reserved for cultivation
and other utilities.
** For more information,
please see Ngũ Kiến
Thô Thiển and Ngũ
Kiến Vi Tế.
Kiến Thủ Sứ: The trials of
delusion and suffering from holding heterodox doctrines.
Kiến Thức: Learning—Knowledge.
Kiến Thức Phàm Phu: Worldly
knowledge.
Kiến Thức Phân Biệt Của Phàm Phu:
Kiến thức biện biệt của phàm phu, phân biệt ta và người, đúng và
sai—Differentiating knowledge—For ordinary beings, it is the everyday mind
continually making distinction between self and others, right and
wrong—Provisional wisdom.
Kiến Thức Rộng: Wide knowledge.
Kiến Tính: See Kiến Tánh.
Kiến Tranh: Cố chấp nơi ý kiến
sai lầm của mình mà tranh cãi—Wrangling on behalf of heterodox views;
striving to prove them.
Kiến Trọc: See Kiến Trược.
Kiến Trược: Drsti-kasaya
(skt)—Tà kiến khởi lên làm vẩn đục Chánh Pháp, một trong ngũ trược—Wrong
views which cause corruption of doctrinal views, one of the five
corruptions.
** For more information,
please see Ngũ
Trược.
Kiến Tu: Kiến hoặc và tu hoặc
(kiến hoặc là mê hoặc về nghĩa lý mà bậc kiến đạo phải dứt bỏ; tu hoặc là
mê hoặc về sự việc mà người tu phải loại trừ)—Wrong views and wrong views
in practice (heterodoxy).
Kiến Tuệ: See Kiến Huệ.
Kiến Tư: Views and thoughts—See
Kiến Hoặc and Tư Hoặc.
Kiến Tư Giới: The realm of view
and thought.
Kiến Tướng: Chuyển Tướng—Theo
Khởi Tín Luận, do cái nghiệp tướng thứ nhất mà chuyển hóa thành các tướng
có thể thấy được—The state or condition of visibility, which according to
the Awakening of Faith, arises from motion.
Kiến Văn:
1) Thấy
và nghe—Experience—Knowledge—Learning—Seeing and hearing.
2) Thấy
Phật bằng mắt và nghe Phật pháp bằng chính tai của mình—Beholding the
Buddha with the eyes and hearing his truth with the ears.
Kiến Võng: Lưới bủa của tà kiến
(trói buộc không cho thân tâm ta giải thoát khỏi luân hồi sanh tử)—The net
of heterodox views, or doctrines, which binds men and rob them of freedom.
Kiến Vương Trai: Lễ cúng Trai
Tăng ba ngày sau khi có người chết, khi mà vong linh người chết đang chầu
Diêm Vương (Lễ Kiến Diêm Vương)—The service on the third day when the
deceased goes to see King Yama.
Kiến Xứ: Ngay nơi tà kiến khởi
sanh luân hồi—The state of wrong views—The state of wrong views gives rise
to transmigration.
Kiền Đạt Bà: Càn Thát Bà—See
Gandharva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kiền Trắc: Kanthaka (skt &
p)—Tên con ngựa mà Đức Phật đã dùng để cỡi khi Ngài rời bỏ cung điện để đi
xuất gia—The name of the steed (horse) on which Sakyamuni Buddha was
mounted when he left his palace to renounce the world (rode away from
home).
Kiện:
1) Bò
thiến: A gelded bull, an ox.
2) Chốt
khóa hay chốt bánh xe: The bolt of a lock.
3) Khóa
lại: To lock.
4) Kiện
cáo: To sue—To have a law-suit against someone.
5) Mạnh
mẽ: Strong—Sturdy—Hard—Unwearied.
6) Một
loại động vật nửa người nửa báo: A creature half man, half leopard.
Kiện Cáo: Law suit—Case.
Kiện Dũng Tọa: Cách ngồi kiết
già của Đức Phật, hai bàn chân tréo lên hai đùi—The heoric posture of the
Buddha with his feet on his thighs soles upward.
Kiện Đà La: Gandhara (skt)—Tên
vương quốc cổ Kiện Đà La ở vùng bắc Ấn Độ—Name of an ancient kingdom,
north of India.
Kiện Đà Lê: Gandhara (skt)—Loại
mật chú cho ta khả năng bay được—A spell that gives power to fly.
Kiện Đạt: Gandha (skt).
1) Hương
thơm: Smell—Scent.
2) Một
loại cây làm nhang thơm: A tree producing incense.
Kiện Địa: Khanda (skt)—See Kiện
Độ.
Kiện Độ: Khanda (skt).
1) Một
miếng, một mảnh, một phần, một chương sách—A piece, a fragment, a portion,
a section, a chapter.
2) Quy
luật tự viện: Monastic rules.
Kiện Đức: See Kiền Trắc.
Kiện Hoàng Môn: Cung điện của
quan thái giám—Palace eunuchs.
Kiện Khang: To be in good
health—See Kiện (4).
Kiện Nam:
1) Người
bị thiến: Pandaka (skt)—A eunuch by castration (deprive of testes, or
ovaries; render impotent).
2) Thời
kỳ thứ tư trong năm thời kỳ của bào thai, tức là 47 ngày sau khi thọ thai
(thời kỳ kiên hậu): Ghana (skt)—The fourth in the five periods of a
foetus, a foetus of forty-seven days.
3) Vững
chắc: Solid—Compact—Firm.
Kiện Từ: Kiến Chi—Kiến Từ—Kiền
Từ—Thiển Thiết Bát hay chiếc bát cạn bằng sắt, loại bát sắt nhỏ, một trong
8 vật cần có của một vị Tỳ Kheo—A bowl, small almsbowl, one of the eight
requisites of monks and nuns (attha-parikkhara).
** For more information,
please see Tám Món
Cần Dùng Của Phật.
Kiêng: To abstain from—To
forbear—To be on a diet.
Kiêng Cữ:
Abstinence—Forbearance—Abstention---To abstain.
Kiêng Dè: To economize—To save.
Kiêng Nể: To have regard and
consideration for—To respect.
Kiêng Thịt: To abstain from
eating meat.
Kiêng Tránh: To abstain
Kiếp: Kalpa (skt).
(I) Nghĩa
của Kiếp—The meanings of Kalpa:
1) Một
khoảng thời gian rất dài: Aeon—Life—An infinitely long time.
2) Khoảng
thời gian một ngày một đêm trên cõi Trời Phạm Thiên (tương đương với 4 tỷ
320 triệu năm): The length of a day and night of Brahma (4.320.000.000
years).
3) Khoảng
thời gian từ lúc vũ trụ được thành lập, đến hoại diệt rồi lại được thành
lập: A period of time between the creation and recreation of a world or
universe.
4) Lấy áo
trời vỗ vào một tảng đá dài 40 dậm, cứ mỗi trăm năm lại vỗ một lần, cứ thế
cho đến khi áo trời rách nát, tiểu kiếp vẫn chưa hết—To pass a heaven
cloth over a solid rock 40 li in size once in a hundred years, when
finally the rock has been thus worn away a kalpa will not yet have passed.
(II) Phân
loại Kiếp—Categories of Kalpas:
(A) Phân loại
theo Phương cách, có ba loại—Methodologically speaking, there are three
types of kalpas:
1) Tiểu
Kiếp: Small kalpa—See Tiểu Kiếp.
2) Trung
Kiếp: Middling Kalpa—See Trung Kiếp.
3) Đại
Kiếp: Mahakalpa—See Đại Kiếp.
(B) Phân loại
theo sự cấu tạo vụ trụ—Có bốn loại kiếp—Categories based on the formation
of the universe—The kalpa is divided into four parts:
1) Thành
Kiếp: The period of world formation.
2) Trụ
Kiếp: The period of world-continuation (stability or development).
3) Hoại
Kiếp: The period of the world-dissolution.
4) Không
Kiếp: The period of void.
Kiếp Ba: Kalpa (skt)—See Kiếp.
Kiếp Bất Hạnh: A wretched life
Kiếp Bố Đảm: Kapotana or
Kebudhana (skt)—Vương quốc cổ, bây giờ là Kebud, về phía Bắc của
Samarkand—An ancient kingdom, the modern Kebud, north of Samarkand.
Kiếp Bố La: Karpura (skt)—Hương
long não—Camphor, described as dragon-brain scent.
Kiếp Con Người Ngắn Ngủi: The
shortness of our lifespan on earth.
Kiếp Diệm: Kalpa-flames—See
Kiếp Hỏa.
Kiếp Độc: Kiếp bất tịnh, khi mà
tuổi thọ giảm và bệnh hoạn hoành hành chúng sanh—The impure or turbid
kalpa, when the age of life is decreasing and all kinds of diseases
afflict men.
Kiếp Hải: Số lượng kiếp rất
nhiều, ví như lượng nước biển—The ocean of kalpas, great in number.
Kiếp Hỏa: Kiếp Diệm—Kiếp Tận
Hỏa—Kiếp Thiêu—Hỏa tai trong thời hoại kiếp, một trong đại tam tai (kiếp
hỏa tai sẽ đốt hết từ mặt đất cho đến cõi sơ thiền)—The fire in the kalpa
destruction, one of the three great calamities.
Kiếp Hôi: Kiếp tro, thời kỳ chỉ
toàn những tro, ngay sau sự tàn phá của kiếp hỏa—Kalpa-ash, the ash after
the fire kalpa of destruction.
Kiếp Kiếp: Generations after
generations.
Kiếp Luân Hồi: In Samsara.
Kiếp Nầy Và Nhơn Quả: Kiếp nầy
và nhơn quả theo Kinh Nhân Quả—Present life and cause and effect according
to Cause and Effect Sutra.
1) Kiếp Nầy Canh Cô Quạnh Quẻ Cũng Vì
Kiếp Trước Hay Hãm Hại Người Khác: Being all alone in this life is
the consequence of harming other people with a wicked mind in previous
life.
2) Kiếp Nầy Câm, Điếc, Đui Mù Cũng Vì
Kiếp Trước Hay Phỉ Báng (Người Tụng Đọc) Kinh Điển Đại Thừa: Being
dumb, deaf, or blind in this life is the consequence of slandering (people
who read or recite) Mahayana sutras in previous life.
3) Kiếp Nầy Chẳng Tu Còn Đợi Đến Kiếp
Nào ? If we do not cultivate in this life, then when will we do
so ?
4)
Kiếp Nầy Có Xe Có Ngựa Vì Tiền Kiếp Hay
Sửa Cầu Vá Lộ: Having the previlege to ride on a horse or travel in
luxurous sedan cars in this life is the consequence of one’s contribution
made to public welfare by building the bridges and repairing the roads in
his previous life.
5)
Kiếp Nầy Con Cháu Đầy Đàn Cũng Nhờ Tiền
Kiếp Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Having so many children and
grandchildren in this life is the consequence of setting free birds,
animals as well as doing good deeds to other beings in previous life.
6)
Kiếp Nầy Được Kính Trọng Nể Vì Cũng Nhờ
Tiền Kiếp Hay Kính Trọng Nể Vì Người Khác: Being respectful in this
life is the consequence of paying respect to other people in previous
life.
7)
Kiếp Nầy Hay Gây Hờn Chuốc Não Cho Người,
Kiếp Sau Sẽ Bị Cọp Beo Rắn Hãm Hại: To create hatred and
afflictions to other people in this life, next life will be harmed by
tigers, bears or snakes.
8)
Kiếp Nầy Hay Nói Thị Phi, Kiếp Sau Câm
Điếc Không Ra Một Lời: Frequent gossip in this life, will be born
dumb and deaf in the next life.
9)
Kiếp Nầy Giàu Có Với Quần Là Áo Lụa Cũng
Vì Tiền Kiếp Hay Cúng Dường Vải Và Áo Cho Chư Tăng Ni: Being so
rich as to wear in silk fabrics or in satin dress in this life is the
consequence of one’s offerings of robes to the monks and nuns in his
previous life.
10)
Kiếp Nầy Hại Người Để Hưởng Lợi Thì Kiếp
Sau Làm Thân Trâu Ngựa Để Đền Trả Và Cuối Cùng Bị Giết Làm Thịt: To
benefit oneself by bringing harm to others, next life will become a
buffalo or a horse to pay retribution and at the end of the life will be
killed for meat.
10) Kiếp Nầy Hạnh Phúc Vì Kiếp Trước
Không Làm Khổ Người Khác: Being happy in this life is the
consequence of not causing physical or mental harm or damage to any being
in previous life.
11)
Kiếp Nầy Hay Khinh Miệt Người, Kiếp Sau
Sanh Vào Chỗ Hạ Tiện Cho Người Miệt Khinh: To look down upon other
people in this life, will be reborn in the mean and poor family and looked
down by other people in the next life.
12)
Kiếp Nầy Hay Ly Gián Đố Kỵ Kẻ Khác, Kiếp
Sau Hôi Thúi Không Ai Tới Gần: To be jealous of others or to cause
disputes among other people, will have a body with bad odour (nobody dares
to come near) in the next life.
13)
Kiếp Nầy Không Đau Ốm Bịnh Hoạn Cũng Nhờ
Kiếp Trước Hay Giúp Đở Thuốc Men Cho Người Nghèo: Being free from
illness in this life is the consequence of donating medicines to the poor
in previous life.
14)
Kiếp Nầy Không Tin Phật Pháp, Kiếp Sau Câm
Điếc Để Không Nghe Gì: Don’t believe in the Buddhist doctrines in
this life, will be dumb and deaf (not be able to read and hear) in the
next life.
15)
Kiếp Nầy Làm Thân Làm Tôi Tớ Người Cũng Vì
Kiếp Trước Hay Hành Hạ Tôi Tớ Hay Nợ Nần Không Trả: Working as a
servant in this life is the consequence of ill-treating servants or not
paying debts in previous life.
16) Kiếp Nầy Làm Thân Trâu Ngựa Cũng
Vì Kiếp Trước Ác Độc Và Giựt Nợ: Becoming a cow or horse in this
life is the consequence of wicked deeds and not paying debts in previous
life.
16)
Kiếp Nầy Lường Gạt Giựt Tiền Chùa, Kiếp
Sau Phải Làm Thân Trâu, Bò, Heo Chó Để Đền Trả: To deceive the
monks and nuns to get the money from the temple in this life, will become
a buffalo, a cow, a pig or even a dog to pay retribution in the next life.
17)
Kiếp Nầy Ngược Đãi Súc Vật, Kiếp Sau Sanh
Thân Súc Vật Đền Trả: To maltreat animals, will be reborn as
animals to pay retribution in the next life.
18)
Kiếp Nầy Nhà Cao Cửa Rộng Nhờ Tiền Kiếp
Hay Cúng Dường Gạo Thóc Cho Chùa: Being so rich as to be able to
live in luxurious life is the consequence of offerings rice to the temples
in previous life.
19)
Kiếp Nầy No Cơm Ấm Áo Vì Tiền Kiếp Hay
Giúp Đở Người Nghèo: Being sufficient with food and dress in this
life is the consequence of giving alms to the poor in one’s previous life.
20) Kiếp Nầy Nói Xấu Người Tu, Kiếp
Sau Mang Thân Làm Thằn Lằn Tắc Lưỡi Mỗi Đêm: To slander the monks
and nuns (not to slander the Triratna) in this life, will be reborn as a
lizard to click the tongue every night.
20)
Kiếp Nầy Phú Quí Thịnh Vượng Vì Tiền Kiếp
Hay Xây Chùa Cất Miễu Cũng Như Dựng Nhà Chẩn Tế: Being sufficient
with luck, nobility and prosperity in this life is the consequence of
one’s generous offerings made in the construction of the temples and
monasteries as well as building of the shelters for the needy in previous
life.
21)
Kiếp Nầy Thấy Nạn Mà Cười, Kiếp Sau Hoạn
Nạn Triền Miên Một Đời: To feel happy when seeing the misfortunes
of others in this life, will be in constant troubles and sicknesses in the
next life.
22)
Kiếp Nầy Thấy Nguy Không Cứu, Kiếp Sau
Phải Mang Thân Tù Đày: To refuse to rescue others when they are in
danger, will have the bad fate of staying in prison in the next life.
23)
Kiếp Nầy Thông Minh Đại Trí Cũng Nhờ Tiền
Kiếp Hay Tụng Kinh Niệm Phật: Being full of great intelligence and
wisdom in this life is the consequence of praying and reciting Amitabha
Buddha’s name in previous life.
24)
Kiếp Nầy Trường Thọ Cũng Nhờ Kiếp Trước
Hay Phóng Sanh Lợi Vật: Enjoying longevity in this life is the
consequence of setting free animals as well doing good deeds to other
people in previous life.
25)
Kiếp Nầy Tướng Mạo Khôi Ngô Cũng Nhờ Kiếp
Trước Hay Thành Tâm Dâng Hoa Cúng Phật: Being so beautiful and
dignified in outer aspects in this life is the consequence of sincere
offerings flowers to the Buddha (statue or image) in previous life.
26)
Kiếp Nầy Vinh Hiển Làm Quan Cũng Vì Tiền
Kiếp Đắp Vàng Tượng Phật: Holding the position of high ranking
officer in this life is the consequence of one’s decorating the statue of
the Buddha with gold leaf in his previous life.
27)
Kiếp Nầy Vu Oan Giá Họa Cho Người, Kiếp
Sau Sẽ Bị Người Vu Oan Giá Họa Để Hãm Hại: To bring harm to others
by spreading false rumours, will be harmed by false rumours in the next
life.
Kiếp Người: Human life
(condition).
Những lời Phật dạy trong
Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Human Life in the Dharmapada Sutra:
1) Được
sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó,
được gặp Phật ra đời là khó—It is difficult to obtain birth as a human
being; it is difficult to have a life of mortals; it is difficult to hear
the Correct Law; it is even rare to meet the Buddha (Dharmapada 182).
2) “Mùa
mưa ta ở đây, đông hạ ta cũng ở đây,” đấy là tâm tưởng của hạng người ngu
si, không tự giác những gì nguy hiểm—Here I shall live in the rainy
season, here in the winter and the summer. These are the words of the
fool. He fails to realize the danger (of his final destination)
(Dharmapada 286).
3) Người
đắm yêu con cái và súc vật thì tâm thường mê hoặc, nên bị tử thần bắt đi
như xóm làng đang say ngủ bị cơn nước lũ lôi cuốn mà không hay—Death
descends and carries away that man of drowsy mind greedy for children and
cattle, just like flood sweeps away a sleeping village (Dharmapada 287).
4) Một
khi tử thần đã đến, chẳng có thân thuộc nào có thể thế thay, dù cha con
thân thích chẳng làm sao cứu hộ—Nothing can be saved, nor sons, nor a
father, nor even relatives; there is no help from kinsmen can save a man
from death (Dharmapada 288).
Kiếp Người Hữu Hạn: Human life
is limited.
Kiếp Người Mong Manh Ngắn Ngủi:
Human life is uncertain and ephemeral.
Kiếp Sau: Future life.
Kiếp Sơ: Thời kỳ đầu của Thành
Kiếp hay lúc mới hình thành của thế giới—The beginning of the kalpa of
formation.
Kiếp Tai: Những thời kỳ tai họa
của lửa, gió, nước trong thời hoại kiếp (sau thành kiếp là hoại kiếp, cuối
hoại kiếp có ba tai nạn hỏa tai, phong tai, và thủy tai lan tràn phá hoại
hết thế giới)—The calamity of fire, wind and water during the kalpa of
destruction.
Kiếp Tân Na: Kapphina
(skt)—Kiếp Thí Na—Kiếp Tỷ Na—Kiếp Tỳ Nô—Một đệ tử của Phật Thích Ca, tên
trong Tăng đoàn là Đại Kiếp Tân Na. Ngài rất giỏi về tinh tú, sau nầy sẽ
thành Phật danh hiệu Phổ Minh Như Lai—A disciple of Sakyamuni, whose
monastic name was Mahakappina. He was very good at astronomy and
constellations. He is to be reborn as Samantaprabhasa Buddha.
Kiếp Tận Hỏa: See Kiếp Hỏa.
Kiếp Thiêu: See Kiếp Hỏa.
Kiếp Thủy: Đại thủy tai sanh ra
vào thời hoại kiếp, một trong tam đại tai—The flood in the kalpa of
destruction, one of the three great calamities.
Kiếp Trước: Past life.
Kiếp Tỳ La: Kapila (skt).
1) Hoàng
xích: Màu vàng đỏ hay nâu—Brown.
2) Vị
Thánh Kiếp Tỳ La, người sáng lập ra Số Luận và trường phái Số Luận: The
sage Kapila, founder of the classical Samkhya philosophy and the school
of that name.
Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đổ:
Kapilavastu (skt)—Nước Kiếp Tỳ La Phạt Thốt Đô hay Kiếp Tỳ La Quốc, trước
kia là Ca Tỳ La Vệ hay Ca La, đây là xứ sở của vua cha Tịnh Phạn của Đức
Phật Thích Ca. Đất nước nầy bị tiêu diệt ngay khi Đức Phật còn tại thế.
Theo truyền thuyết thì xứ nầy khoảng 100 dậm về phía Bắc của thành Ba La
Nại, tây bắc của Gorakhpur bây giờ—Capital of the principality occupied by
the Sakya clan; destroyed during Sakyamuni’s life, according to legend;
about 100 miles due north of Benares, northwest of present Gorakhpur.
Kiếp Tỳ La Thiên: Tên của một
loại chư thiên hay một loại quỷ—Deva or demon, called Kapila, or Kumbhira,
or Kubera.
Kiếp Tỳ Tha: Kapittha (skt).
1) Tăng
Khư Thi: Một vương quốc cổ ở Trung Ấn—An ancient kingdom of Central India.
2) Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là một vị Bà La Môn đối xử tệ
với Phật tử, sau đó tái sanh làm một loài cá, và cuối cùng được Đức Thích
Ca chuyển hóa: According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, this is a Brahman of Vrji who ill-treated the Budhists of
his time, was reborn as a fish, and was finally converted by Sakyamuni.
Kiếp Tỳ Xá Dã: Nơi mà bây giờ
người ta gọi là Kashmir—Said to be presently Kashmir.
Kiết:
1) Da
dê—Deer-skin.
2) Thiến:
To castrate.
3) Tốt:
Sri (skt)—Auspicious—Lucky—Fortunate.
Kiết Ấn: Phép truyền trao của
Mật Giáo (người nhận Kết Ấn phải phát Bồ Đề Tâm và phải thụ nhận phép quán
đảnh)—A binding agreement sealed as a contract, employed by the esoteric
sects.
Kiết Bệnh: See Kết Bệnh.
Kiết Bố La: Karpura (skt)—Long
não—Dragon-brain scent—Camphor.
Kiết Địa Lạc Ca: Khadiraka
(skt)—Vòng thứ ba trong bảy vòng quanh núi Tu-Di—The third of the seven
circles or concentric mountains around Meru (Sumeru).
Kiết Già: Padmasana (skt)—Thế
ngồi hoa sen, theo kiểu ngồi của Phật Tổ Thích Ca, hai chân tréo nhau, bàn
chân ngửa lên—The Buddha’s sitting posture with legs crossed and soles
upward—To sit cross-legged.
a) Hàng
Ma Kiết Già: Chân trái tréo lên chân phải—The left leg is over right, the
left hand is over the right hand for being subduing of demons.
b) Cát Tường
Kiết Già: Chân phải tréo lên chân trái, bàn tay phải đặt trên bàn tay
trái—The right leg is over left for blessing, the right hand is being
placed over the left one.
Kiết Già Bà Sa: Khadga-visana (skt)—Kiết Già Tỳ Sa Nã—Sừng tê giác—A
rhinoceros’ horn.
Kiết Già Phu Tọa: See Kiết Già.
Kiết Giới:
1)
Kết thành giới luật để hộ trì—Bound by the commandments.
2)
Bàn thờ Phật được đặt tại một nơi cố định, hay một vùng cố
định trong tự viện: A fixed place, or territory; a definite area; to fix a
place for a monastery, or an altar;
3)
Một số nhất định cho buổi họp chúng Tăng: A determined
number, e.g. for an assembly of monks.
4)
Kiết Giới Ngũ Tướng: It is a term specially used by the
esoteric sects for an altar and its area, altar being of five different
shapes.
·
Phương Tướng: A square shape.
·
Viên Tướng: A round shape.
·
Cổ Tướng: Rectangular shape.
·
Bán Nguyệt Tướng: Semi-circle.
·
Tam Giác: Triangle.
Kiết Giới Ngũ Tướng: The five different shapes of an altar—See Kiết Giới (4).
Kiết Giới Nhị Bất
Định: Aniyata (skt)—Hai giới quan hệ tới vấn đề tình dục, nhưng
sự vi phạm lại mơ hồ không rõ—Two offences which are connected with
activities of sex, but the violation is not clear—See Nhị Bất Định Giới.
Kiết Giới Thập Tam
Tăng Tàn: Sanghadisesa (skt)—Mười ba giới Tổn Hại Tăng Tàn khiến cho
Tăng Ni phạm phải bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn—Thirteen offences
which entail upon a monk temporary expulsion from the Order—See Thập Tam
Giới Tăng Tàn.
Kiết Giới Tứ Ba La
Di: Parajika (skt)—See Tứ Đọa.
Kiết Hà:
A river of bondage (suffering or illusion).
Kiết Hạ:
Chấm dứt kỳ an cư kiết hạ—The end of the summer retreat.
Kiết Kinh:
Chấm dứt bài—The end of a sutra.
Kiết La Nã
Tô Phạt Lạt Na: Karnasuvarna
(skt)—See Yết La Nã Tô Phạt Lạt Na.
Kiết Lật Đà:
Grdhra
(skt)—Linh thứu (kênh kênh)—Vulture.
Kiết Lợi La:
Một trong những vị Thế Tôn trong nhóm Kim Cang giới—One of the honourable
ones in the Vajra-dhatu groups.
Kiết Lợi
Vương: Kaliraja (skt)—Tiền kiếp
của Kiều Trần Như, khi còn làm quốc vương ông đã cắt tay chân của
Ksanti-rsi vì những thê thiếp của ông đã lạc vào thiền thất của vị nầy. Do
sự tự tại của vị ẩn sĩ nầy mà ông đã cải đổi và người ta đoán rằng về sau
nầy ông sẽ là đệ tử của Phật Thích Ca—A former incarnation of Kaundinya,
when as king he cut off the hands and feet of Ksanti-rsi because his
concubines had strayed to the hermit hut. He was converted by the hermit’s
indifference, it was predicted that he would become a disciple of Buddha.
Kiết Ma:
Karma (skt)—See Yết Ma.
Kiết Nghiệp:
See Kết Nghiệp.
Kiết Nhật:
A good or an auspicious day.
Kiết Ni Ca:
Kanaka (skt).
1)
Tên của một vài loại cây màu vàng: Name of several yellow plants.
2)
Táo gai: Thorn apple.
3)
Một loại đàn hương: A species of sandalwood.
Kiết Nô Bộc:
Kanabhuj or Kanada (skt)—Người sáng lập trường phái Triết Lý Ấn Độ
Vaisasika—Founder of Vaisesika school of Indian philosophy.
Kiết Phược:
See Kết Phược.
Kiết Sử:
Fetters.
1)
Kiết và sử, hai tên gọi khác nhau của phiền não, kiết là trói buộc
thân tâm kết thành quả khổ, sử là theo đuổi và sai sử chúng sanh—The
bondage and instigators of the passions, two other names for afflictions.
2)
Theo Thanh Tịnh Đạo, kiết sử là mười pháp khởi từ sắc tham; gọi là
kiết sử vì chúng trói buộc các uẩn trong đời nầy với các uẩn đời kế tiếp,
hoặc trói buộc nghiệp với quả, hoặc trói buộc hữu tình vào đau khổ. Vì bao
lâu cái nầy còn hiện hữu thì cái kia không chấm dứt: The fetters are the
ten states beginning with greed for the fine-material, so called because
they fetter aggregates in this life to aggregates of the next, or karma to
its fruit, or beings to suffering. For as so long the ones exist there is
no cessation of the others—See Ngũ Hạ Phần Kết, and Ngũ Thượng Phần Kết in
Vietnamese-English Section.
** For
more information, please see Sử (3).
Kiết Tặc:
See Kết Tặc.
Kiết Tập:
The collecting and fixing of the Buddhist canon. The first assembly was
presided by Kasyapa (Ca Diếp), Ananda for the Sutras (Kinh) and the
Adhidharma , and Upali for the Vinaya (Luật)—See Kết Tập.
Kiết Thán: See Kết Thán.
Kiết Thất: Retreats.
Kiết Thất Định Kỳ: Periodic
retreats.
Kiết Tra Bố Đảm Na: See Yết Tra
Bố Đảm Na.
Kiết Tường: See Cát Tường.
Kiết Xác: Very poor.
Kiệt:
1) Đơn vị
tương đương với một phần 32.000 do tuần—A unit equivalent to the 32,000th
part of a yojana.
2) Kiệt
sức: Exhausted—Used up—Finished.
3) Kiệt
xuất: Utmost.
Kiệt Chi: See Tăng Kỳ Chi.
Kiệt Đà La: Khadira or Karavira
(skt)—Loại gỗ cứng—Hard wood.
Kiệt Liệt:Very famous.
Kiệt Lực: To be exhausted.
Kiệt Quệ: Exhausted.
Kiệt Sức: To be burned out—To
be worn out—To be exhausted.
Kiệt Tác: Masterpiece.
Kiệt Xoa: Một nơi trên núi
Karakoram mà theo ngài Pháp Hiền, nơi đây các vương triều đã từng tổ chức
những cuộc cúng dường Trai Tăng hay những chúng hội thật vĩ đại. Theo
Eitel trong trung Anh Phật Học Từ Điển, thì đây là vùng Khasa, nơi trú ngụ
của một bộ tộc cổ Kasioi trong vùng Paropamisus; trong khi những học giả
khác thì cho rằng đây có lẽ là những vùng bây giờ là Kashmir, Iskardu, hay
Kartchou—A place said to be in Karakoram mountains, where according to
Fa-Hsien formerly great assemblies were held under royal patronage and
with royal treatment. Eitel, in The Dictionary of Chinese-English Buddhist
Terms, gives it as Khasa, and says an ancient tribe on the Paropamisus,
the Kasioi of Plotemy; others give different places, i.e. Kashmir,
Iskardu, Kartchou.
Kiệt Xuất: Outstanding
Kiêu:
1) Sự
kiêu ngạo (cậy vào sự việc trôi chảy hay tài của mình mà sanh lòng kiêu
ngạo): Arrogant—Haughty—Proud—Boastful—Bragging—Self-indulgent—Indulgent.
2) Tưới
nước: To sprinkle—To water.
Kiêu Đàm Di: Gautami (skt)—See
Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English Section.
Kiêu Khang: Hầm hố của ngã mạn
cống cao—The pit of pride and arrogance.
Kiêu Mạn: Kiêu mạn là tên một
loại phiền não, một trong ngũ thượng phần kết—Arrogance and pride, a kind
of klesa, one of the five higher bonds of desire—See Ngũ Thượng Phần Kết.
Kiêu Ngạo: See Kiêu.
Kiêu Phạm Ba Đề: Gavampati
(skt)—Còn gọi là Ca Phạm Ba Đề, Cấp Phòng Bát Để, Kiêu Phạm Bát Đề, Kiều
Phạm Ba Đề, hay Kíp Phòng Bát Để, dịch là Ngưu Thi hay Ngưu Vương, là tên
một vị Tỳ Kheo có cái miệng cứ nhai tới nhai lui như trâu nhai lại vì tội
của đời quá khứ (theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tiếng Phạn Gavampati dịch là
Ngưu Vương. Ngài do ở đời quá khứ có ngắt một nhánh lúa ném xuống đất, nên
trong 500 đời phải làm kiếp trâu để đền bù, nay tuy mang thân người, nhưng
có hình tướng và tiếng nói giống như loài trâu)—Interpreted as chewing the
cud; lord of cattle, etc. (with the feet and cud-chewing characteristic of
an ox) A man who became a monk, born with a mouth always ruminating like a
cow because of former oral sins; he had spilled some grains from an ear of
corn he plucked in a former life.
Kiêu Tát La: Kosala (skt)—See
Kiều Tát La
Kiêu Thi: See Kiêu Thi Ca.
Kiêu Thi Ca: Kausika or Kusika
(skt).
1) Còn
gọi là Kiêu Chi Ca, họ của Đế Thích (trong Đại Trí Độ Luận, theo Kinh Tạp
A Hàm: “Vị Tỳ Kheo lại bạch với Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, do duyên gì
mà ngài Đế Thích Đề Hoàn lại có tên là Kiêu Thi Ca? Đức Phật nói với vị Tỳ
Kheo rằng: Ngài Thích Đề Hoàn ấy khi còn là người có họ là Kiêu Thi Ca. Vì
nhơn duyên ấy mà ngài có tên là Kiêu Thi Ca.”)—Kausika, of the family of
Kusika, family name of Indra. This story is mentioned in the Maha-Prajna
Sastra.
2) Có
người cho rằng Đức Phật A Di Đà cũng có họ Kiêu Thi Ca: One account says
Amitabha was of the same family name.
Kiêu Thưởng Di: Kausambi
(skt)—Một thành phố cổ nằm bên bờ sông Hằng, nằm bên dưới Doab. Có nhiều
người cho rằng đây là vùng Kusia gần Kurrah, nhưng Kusia bây giờ là làng
Kosam nằm bên bờ nhánh sông Jumna, khoảng 30 dậm bên trên vùng
Allahabad—An ancient city on the Ganges, in the lower part of Doab. It has
been identified by some with Kusia near Kurrah, but is the village of
Kosam, on the Jumna, 30 miles above Allahabad.
Kiêu Trần Na: Kaundinya
(skt)—See Kiều Trần Như.
Kiêu Trần Như: Kaundinya
(skt)—See Kiều Trần Như.
Kiêu Xa: Proud and luxurious
Kiêu Xa Da: Kauseya (skt)—Cao
Thế Da—Kiêu Xá—Vải làm bằng lụa thô—Cloth made of wild silk.
Kiếu Hoán: See Khiếu Hoán.
Kiều:
1) Cầu:
Bridge—Cross-beam.
2) Kiều
Diễm: Beautiful.
Kiều Diễm: Charming—Graceful.
Kiều Đàm Ni: Gautami (skt)—See
Ma Ha Ba Xà Ba Đề in Vietnamese-English Section.
Kiều Lương: Nhẫn nại—A bridge,
trampled on by all but patiently bearing them, a synonym for patience, or
endurance.
Kiều Mỵ: Beautiful.
Kiều Nhi: Beloved daughter.
Kiều Nữ: See Kiều Nhi.
Kiều Phạm Ba Đề: Gavampati
(skt)—See Kiêu Phạm Ba Đề.
Kiều Tát La: Kosala (skt)—Còn
gọi là Câu Sa La, Câu Tát La, hay Cư Tát La.
1) Bắc
Kiều Tát La: Uttarakosala (skt)—Một vương quốc cổ mà bây giờ là vùng Oude,
nằm về miền Trung Ấn Độ (theo Truyện Pháp Hiển, Bắc Kiều Tát La là tên một
vương quốc cổ ở miền Trung Ấn, khác với nước Nam Kiều Tát La. Đây là một
trong 16 vương quốc lớn thời Đức Phật còn tại thế, thủ phủ là thành Xá Vệ,
nơi Đức Phật đã lưu trú trong một thời kỳ dài)—Northern Kosala—An ancient
kingdom in Central India, the modern Oude. Its capital is Sravasti, where
the Buddha and his order stayed for a long period of time—See Xá Vệ Quốc.
2) Nam
Kiều Tát La: Daksinakosala (skt)—Vương quốc cổ mà bây giờ thuộc về các
tỉnh trung tâm Ấn Độ (theo Tây Vực Ký thì ngài Huyền Trang cho rằng vùng
nầy là vùng Trung Ấn. Theo Truyện Pháp Hiển, đây là nước Đạt Thân hay Nam
Kiều Tát La, để phân biệt với Bắc Kiều Tát La, còn gọi là Đại Kiều Tát La.
Đây là nơi mà ngài Long Thọ đã từng lưu trú, được vua Sa Đa Bà Ha rất kính
trọng. Nhà vua đã cho xây một ngôi chùa lớn năm tầng tại Bạt La Vị La. Vị
trí thủ phủ của nước nầy ngày nay chưa ai định rõ)—Southern Kosala—An
ancient kingdom, also in Central India, part of the present Central
Provinces.
Kiều Trần Như: Kaundinya (skt).
1)
Ajnata-Kaundinya (skt)—Kondanna (p)—Tên của một trong năm vị đệ tử đầu
tiên của Đức Phật. Ông là người trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà La Môn được
vua Tịnh Phạn thỉnh đến lễ quán đảnh Thái Tử sơ sinh. Ông nguyên là thái
tử xứ Ma Kiệt Đà, là cậu của Đức Phật, và cũng là bạn cùng tu khổ hạnh với
Đức Phật khi Ngài mới xuất gia (Nhóm ông Kiều Trần Như có năm người, trước
kia theo làm bạn tu khổ hạnh với Đức Phật. Sau khi thấy Đức Phật thọ nhận
bát sữa của nàng Mục Nữ cúng dường, cho rằng Đức Phật đã thối tâm trên
đường tìm đạo giải thoát nên họ đã ly khai với Phật. Sau khi Đức Phật
thành đạo, năm vị nầy lại gặp Đức Phật tại vườn Lộc Uyển/Mrgadava trong
thành Ba La Nại/Varanasi, được Phật thuyết giảng về Tứ Diệu Đế để độ họ
trở thành những vị Tỳ Kheo đầu tiên. Đây là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức
Phật)—Name a prince of Magadha, uncle and one of the first five disciples
of Sakyamuni. He was the youngest and cleverst of the eight brahmins who
were summoned by King Suddhodana to name the infant prince. He used to
practise ascetic practices with Prince Siddhartha when he just left home.
2)
Vyakarana-Kaundinya (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, thì
Vyakarana-Kaundinya là vị tôn giả, xuất thân từ một gia đình Bà La Môn
giàu có trong thành Ca Tỳ La Vệ, sanh ra trước Đức Phật. Người đã được Đức
Phật bảo rằng một Đức Phật quả là quá thiêng liêng để mà để lại bất cứ xá
lợi nào trên trần thế nầy—According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms, Vyakarana-Kaundinya, son of a very wealthy
Brahman family near Kapilavastu, and was born before the Buddha. He was
the one, who was told by the Buddha that a Buddha is too spiritual to
leave any relics behind.
Kim:
1)
Kim Tinh: Sukra (skt)—Venus.
2) Vàng
hay quý kim: Hiranya (skt)—Y Lại Nã—Gold or any precious metal.
3) Bây
giờ: Now—The present—At present.
4) Màu
sặc sỡ: Suvarna (skt)—Tô Phạt Thích—Of a good or beautiful
colour—Golden—Yellow.
Kim Ba: The moonlight.
Kim Cang: Vajra (skt)—Diamond
or adamantine—Biểu tượng năng lực tâm linh vô thượng được so sánh với viên
ngọc quý nhất, kim cương với sự trong suốt và sáng ngời của nó, các màu
khác được phản chiếu trong ấy, mà nó vẫn giữ được tính không màu sắc của
nó. Nó có thể cắt đứt được mọi vật rắn khác, trong khi một một thứ gì có
thể cắt đứt được nó—The symbol of the highest spiritual power, which is
compared with the gem of supreme value, the diamond, in whose purity and
radiance other hues are reflected while it remains colorless, and which
can cut every other material, itself is being cut by nothing.
(A) Nghĩa của
Kim Cang—The meanings of Vajra:
1) Kim
Cang chùy của vua Trời Đế Thích: The thunderbolt of Indra, often called
the diamond club.
2) Biểu
tượng của mặt trời: A sun symbol.
3) Một
trong thất bảo: One of the seven precious stones (saptaratna).
(B) Ba đặc
tánh của Kim Cang—Three special natures of diamond:
1) Cứng
rắn: Solid—Firm.
2) Chiếu
sáng: Bright—It has brilliance.
3) Sắc
bén: Sharp—It is piercing—Trong Phật giáo, kim cang có thể cắt đứt mọi
phiền não, khiến cho chúng sanh có được đại trí để tiến đến tâm Bồ đề—In
Buddism, vajra can cut off all afflictions of living beings so that they
can open great wisdom and advance to bodhi-mind.
Kim Cang Bảo Giới: Nhất Tâm Kim
Cang Bảo Giới hay Đại Thừa giới trình bày trong Kinh Phạm Võng—The
Mahayana rules according to the Brahma Net sutra.
** For more information,
please see Bốn Mươi
Tám Giới Khinh.
Kim Cang Bảo Tạng: Theo Kinh
Niết Bàn, Bảo Tạng Kim Cang gồm Niết Bàn và Bồ Đề tâm, là nguồn tâm của
mọi chúng sanh—According to the Nirvana Sutra, the “Diamond” treasury,
i.e. nirvana and the pure bodhi-mind, as the source of the mind of all
sentient beings.
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa:
Vajracchedika Prajnaparamita—See Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa in
Appendix A (6).
Kim Cang Bất Hoại:
1) Tánh
chất bất hoại của kim cương: The indestructibility of the diamond.
2) Kim
Cang thân bất hoại của Đức Phật: The diamond indestructible body of the
Buddha.
Kim Cang Bồ Tát: There are
several Vajra-bodhisattvas:
1) Kim
Cang Nhân Bồ Tát: Vajrahetu bodhisattva.
2) Kim
cang Thủ Bồ Tát: Vajrapani bodhisattva.
3) Kim
Cang Bảo Bồ Tát: Vajraratna bodhisattva.
4) Kim
Cang Tạng Bồ Tát: Vajragarbha bodhisattva.
5) Kim
Cang Châm Bồ Tát: Vajrasuci bodhisattva.
6) Kim
Cang Tướng Bồ Tát: Vajrasena bodhisattva.
7) Kim
Cang Tác Bồ Tát: Vajrapasa bodhisattva.
8) Kim
Cang Câu Bồ Tát: Vajrankusa bodhisattva.
9) Kim
Cang Hương Bồ Tát: Vajradhupa bohisattva.
10) Kim Cang
Quang Bồ Tát: Vajratejah bodhisattva.
11) Kim Cang
Pháp Bồ Tát: Vajradharma bodhisattva.
12) Kim Cang
Lợi Bồ Tát: Vajratiksna bodhisattva.
Kim Cang Bộ: Vajrapani
(skt)—Nhóm Kim Cang trong Kim Cang Giới hay Thai Tạng Giới (các vị tôn tay
cầm chày Kim Cang nêu cao trí của Đức Như Lai, 13 vị tôn trong Kim Cang
Thủ bên trái của Đức Đại Nhật Như Lai) —Groups of the same in the
Vajradhatu or Garbhadhatu mandalas.
Kim Cang Bộ Bồ Tát:
Vajrapani-bodhisattva (skt)—Kim Cang Bộ Tát Đỏa—Vị Bồ Tát trong Kim Cang
Bộ như Bồ tát Phổ Hiền—Vajrapani-bodhisattva, especially P’u-Hsien
(Samantabhadra).
Kim Cang Câu Vương: The Vajra
Hook King.
Kim Cang Châm: Vajrasena
(skt)—Kim kim cang—The straight vajra.
Kim Cang Chúng: Quyến thuộc của
chư Kim Cang Thần—The retinue of the Vajradevas.
Kim Cang Chử: Chày Kim Cang rất
bén—The Vajra or thunderbolt. It is generally sharp as such, but has
various other forms.
1) Một
loại vũ khí của binh lính Ấn Độ: The Vajra is also interpreted as a weapon
of Indian soldier.
2) Mật
giáo và những tông phái khác dùng Kim Cang Chử như một biểu tượng của trí
tuệ và sức mạnh để chặt đứt phiền não và khắc phục ma chướng: It is
employed by the esoteric sects, and others, as a symbol of wisdom and
power over illusion and evil spirits.
3) Độc Cổ
Kim Cang Chữ: Khi thẳng thì Kim Cang Chử được gọi là “Độc Cổ”—When
straight as a sceptre it is one limbed vajra.
4) Tam Cổ
Kim Cang Chử: Khi có ba chia thì gọi là “tam cổ”—When it has three prongs,
it is called “three-pronged” vajra.
5) Ngũ Cổ
Kim Cang Chử: Khi có năm chia thì gọi là “ngũ cổ”—When it has five prongs,
it is called “five-pronged” vajra.
6) Cửu Cổ
Kim Cang Chử: Khi có chín chia thì gọi là “cửu cổ”—When it has nine
prongs, it is called “nine-pronged” vajra.
Kim Cang Dạ Xoa: Vajrayaksa
(skt).
1) Vị
Thần Hộ Pháp thường được đặt ngay cổng của các chùa. Kim Cang Dạ Xoa hay
Phẫn nộ Minh Vương, là một trong năm vị Minh Vương, người hộ trì Phật
pháp, nhưng lại là kẻ thù của ma quỷ. Vị nầy có ba mặt sáu tay hay một mặt
bốn tay, trụ tại phương Bắc, là vị Phẫn Nộ Tôn Bất Không Thành Tựu Như Lai
ở phương Bắc trong ngũ trí Như Lai (ngũ Phật) của Kim Cang Giới—The
guardian spirits represented on the temple gates. One of the five kings of
hells or messengers and manifestation of Vairocana. The fierce maharaja as
an opponent of evil, he is one of the guardians of Buddhism. He has
either three faces and six arms, or one face and four arms. He is a fierce
guardian of the north in the region of Amoghasiddhi in the Vajradhatu—See
Ngũ Phật.
2) Vị Bồ
Tát có răng nanh: A Bodhisattva with the fangs.
Kim Cang Diệt Định: Kim cang
diệt định là giai đoạn sau cùng của Bồ Tát với trí tuệ bất hoại—Diamond
meditation, the last stage of a bodhisattva, characterized by firm and
indestructible knowledge, penetrating all reality.
Kim Cang Dụ Định:
Vajra-meditation—See Kim Cang Định and Kim Cang Tam Muội.
Kim Cang Đài: Diamond Lotus.
Kim Cang Đàm: Hỏa Viện—Giới
Ấn—Mật Phong Ấn—Vòng tròn lửa ngăn cấm sự xâm nhập của ma
quỷ—Diamond-blaze, acircle of fire to forbid the entry of evil spirits.
** For more information,
please see Hỏa Ấn,
Hỏa Giới, and Hỏa
Viện.
Kim Cang Đảnh:
1) Vương
miện Kim Cang: The vajra (diamond) apex or crown.
2) Tên
gọi chung các kinh của Mật Giáo: A general name of the esoteric doctrine
and sutras of Vairocana.
Kim Cang Đảnh Kinh: Kim Cang
Đảnh Kinh là kinh chính của Kim cang Đảnh Tông, một trong ba bộ kinh chính
của Chân Ngôn Giáo—Vajra-crown sutra, the authority for the Vajra-Crown
sect, one of the three main sutras of the Shingon.
Kim Cang Định: Vajrasamadhi
(skt)—Kim Cang Dụ Định—Kim Cang Tam Muội—Thiền định của Bồ tát ở ngôi tối
hậu. Người tu hành và đắc phép thiền định nầy sẽ được trí bền vững, sắc
bén và bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất cả phiền não và tà kiến
thiên lệch—Vajra-meditation—Samadhi as a state of great stability, that of
the last stage of the Bodhisattva, characterized by firm, indestructible
knowledge, penetrating all reality; attained after all remains of illusion
and wrong views have been cut off.
** For more information,
please see Kim Cang
Tam Muội.
Kim Cang Đoạn: Vajracchedika
(skt)—Cắt đứt Kim Cang, một đoạn văn ngắn trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật
Đa—Diamond cutter, a short paragraph in the Perfection of Wisdom Sutra
(Prajnaparamita Sutra)—See Kinh Kim Cang in Appendix G.
Kim Cang Đồng Tử: Vajrakumara
(skt).
1) Kim
Cang Sứ Giả của chư Phật và chư Bồ Tát: A Vajra-messenger of the Buddhas
or Bodhisattvas.
2) Hóa
thân của Đức Phật A Di Đà thành một đứa trẻ tay cầm kim cương chùy, mặt có
vẻ phẫn nộ: An incarnation of Amitabha in the form of a youth with fierce
looks holding a vajra.
Kim Cang Giới: Vajradhatu
(skt).
·
Kim Cang giới là một phần tử của vũ trụ; nó là TRÍ ĐỨC bất
hoại của Đức Tỳ Lô Giá Na; nó khởi lên từ trong Thai Tạng Giới—The Diamond
or Vajra realm, element of the universe; it is the wisdom of Vairocana in
its indestructibility and activity; it arises from the Garbhadhatu (the
womb of all things).
·
Kim Cang Giới được diễn dịch là “Trí” giới—Vajradhatu is
interpreted as the realm of intellection.
·
Kim cang giới tiêu biểu cho thế giới tâm linh của sự toàn
giác: The Vajradhatu represents the spiritual world of complete
enlightenment.
·
Mật Giáo coi Kim Cang Giới là Pháp Thân, trong khi Hiển Giáo
thì coi nó như là Hóa Thân: The esoteric Dharmakaya doctrine as contrasted
with the exoteric Nirnamakaya.
·
Kimg Cang Giới là yếu tố thứ sáu của tâm, nó biểu hiệu bằng
một hình tam giác mũi chúi xuống và mặt trăng tròn tượng trưng cho trí tuệ
hay sự hiểu biết—It is the sixth element of “Conscious mind,” and is
symbolized by a triangle with the point downwards and by the full moon,
which represents “wisdom” or “understanding.”
·
Kim Cang Giới tương ứng với “quả.”—Vajradhatu corresponds to
fruit or effect.
·
Kim Cang giới là vũ trụ được nhìn như là sự thể hiện của Đức
Phật Tỳ Lô Giá Na mà hình ảnh của Ngài được phản chiếu trong tâm của mọi
chúng sanh: Vajradhatu is the universe viewed as the manifestation of
Vairocana Buddha whose image is reflected in the heart of every being.
Kim Cang Giới Ngũ Bộ: Five
divisions of the Vajradhatu represented by five Dhyani-Buddhas:
1) Trung
Đài Đại Nhựt Như Lai: Vairocana in the center.
2) Đông
Độ A Súc Bệ Phật: Aksobhya in the east.
3) Nam
Phương Bảo Sanh Phật: Ratnasambhava in the south.
4) Tây
Phương A Di Đà Phật: Amitabha in the west.
5) Bắc
Phương Bất Không Thành Tựu: Amoghasiddhi or Sakyamuni in the north.
** For more information,
please see Ngũ Phật
Kim Cang Giới Thai Tạng Giới:
Vajradhatu and Garbhadhatu (skt).
(I) Kim
Cang Giới: Vajradhatu (skt)—See Kim Cang Giới.
(II) Thai
Tạng Giới: Garbhadhatu (skt).
1) Thai
Tạng Giới là kho chứa mọi lý luận của trí: Garbhadhatu is the womb or
store of the Vairocana reason or principles of the wisdom.
2) Nơi
tồn chứa tất cả mọi LÝ LUẬN của Tỳ Lô Giá Na bất hoại trí—The womb or
store of the Vairocana reason or principles of the Vairocana’s
indestructible wisdom—The womb or store of all things.
3) Thai
Tạng Giới được diễn dịch như là chất liệu căn bản của Kim Cang
Giới—Garbhadhatu is interpreted as the substance underlying the Vajradhatu
(realm of intellection).
4) Thai
Tạng Giới tương ứng với nhân: Garbhadhatu corresponds to the cause.
Kim Cang Hộ Bồ Tát: Vị Bồ Tát
bảo hộ che chở cho con người với lòng đại bi như một chiếc nón sắt bao
bọc—The Bodhisattva Vajra pala, who protects men like a helmet and
surrounds them like mail by his great pity.
Kim Cang Huệ: Trí tuệ thấu rõ
lý của thực tướng mà phá vỡ chư tướng hay trí tuệ ảo giác—Diamond-wisdom,
which by its reality overcomes all illusory knowledge.
Kim Cang Khẩu: Lời nói hay giáo
thuyết xuất ra từ kim khẩu của Phật bền vững như kim cương bất
hoại—Diamond mouth (of a Buddha)—The diamond-like firmness of the Buddha
doctrine.
Kim Cang Kinh:
Vajracchedika-prajnaparamita-sutra—Kim cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật
Kinh, tóm lược cô đọng của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, trước tiên được
dịch sang Hoa ngữ bởi ngài Cưu Ma La Thập, sau đó có nhiều bản dịch
khác—The Diamond Sutra, a condensation of the Prajnaparamita; first
translated into Chinese Kumarjiva, later by others.
** For more information,
please see Kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La
Mật Đa.
Kim Cang Linh: Chuông Kim Cang
có công dụng làm tăng sự chú tâm và phấn chấn người nghe—The diamond or
vajra bell for attracting the attention of the objects of worship, and
stimulating all who hear it.
Kim Cang Linh Bồ Tát:
Vajra-ghanta (skt)—Vị Bồ Tát tay cầm chuông trong Kim Cang Mạn Đồ La—A
Bodhisattva holding a bell in the Vajradhatu mandala.
Kim Cang Luân:
1) Kim
Cang Pháp Luân: Bánh xe Pháp Kim cang—The diamond or vajra wheel.
2) Kim
Cang Thừa: Vajrayana (skt)—Symbolical of the esoteric sects.
3) Kim
luân của tầng đất thấp nhất: The lowest of the circles beneath the earth.
Kim Cang Luân Sơn: See Kim Cang
Vi Sơn.
Kim Cang Luân Tọa: See Đại Nhân
Đà La Tọa.
Kim Cang Lực: Sức mạnh như kim
cương, sức mạnh không ai chống nổi—Vajra-power—Irresistible strength.
Kim Cang Lực Sĩ: See Kim Cang
Thần, Kim Cang Dạ Xoa, and Kim Cang Mật Tích.
Kim Cang Mạn Đồ La: See Kim
Cang Giới, and Kim cang Giới Ngũ Bộ.
Kim Cang Mật Tích: Mật Tích Kim
Cang—Mật Tích Lực Sĩ—Kim Cang Lực Sĩ—Kim Cang Thủ—Chấp Kim Cang—Những vị
tay cầm chày kim cang thể hiện đại uy ủng hộ Phật pháp. Đức Đại Nhật Như
Lai lấy các vị Kim Cang Mật Tích nầy làm nội quyến; lấy các vị Phổ Hiền,
Văn Thù làm đại quyến hay ngoại quyến. Cũng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
lấy các vị Thanh Văn như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…, làm nội quyến, lấy
các vị Bồ Tát làm đại quyến—The deva-guardians of the secrets of
Vairocana, his inner or personal group of guardians in contrast with the
outer or major group of P’u-Hsien, Manjusri, etc. Similarly, Sariputra, or
Maudgalyayana, the sravakas, etc., are the inner guardians of Sakyamuni,
the Bodhisattvas being the major group.
Kim Cang Môn: Cổng Kim Cang
trong Thai Tạng Mạn Đồ La—The diamond door of the Garbhadhatu mandala.
Kim Cang Ngữ Ngôn: See Kim Cang
Niệm Tụng.
Kim Cang Niệm Tụng: Kim cang
Ngữ Ngôn—Niệm thầm—Silent repetition.
Kim Cang Phan: Vajraketu
(skt)—Cờ treo trên cột đầu rồng—A flag hung to a pole with a dragon’s
head.
Kim Cang Phan Bồ Tát: Vajraketu
Bodhisattva (skt)—Vị Bồ Tát cầm cờ, một trong 16 vị Bồ Tát trong nhóm Kim
Cang Giới—The flag-bearer, one of the sixteen in the Vajradhatu group.
Kim Cang Pháp Giới Cung: Cung
điện của Thai Tạng Giới, nơi trụ của Đức Đại Nhật Như Lai (kim cương là
thực tướng của Như Lai, pháp giới là trí thể của thực tướng. Pháp thân của
Đức Đại Nhật Như Lai trụ ở trí thể của thực tướng)—The palace or shrine of
Vairocana in the Garbhadhatu.
Kim Cang Phật: Vajra-buddha
(skt)—Đức Đại Nhật Như Lai, có lúc chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni như là hóa thân
của chân lý, trí tuệ và thanh tịnh—Vairocana, the Sun-Buddha; sometimes
applied to Sakyamuni as embodiment of the Truth, of Wisdom, and of Purity.
Kim Cang Phật Tử: Con của Kim
Cang Phật hay con của Đức Đại Nhật Như Lai, từ dùng để chỉ những người mới
được làm phép gia nhập vào Mật Giáo—Son of the Vajra-buddha, i.e. of
Vairocana, a term applied to those newly baptized into the esoteric sect.
Kim Cang Quán: Phép Kim Cang
quán là phép quán xuyên qua chân lý—The diamond insight or vision which
penetrates into reality.
Kim Cang Quyền: Nắm tay Kim
Cang hay hai tay nắm lại và để ngay trước ngực (có bốn loại quyền: nắm tay
thông thường, để ngón cái nằm thẳng, đặt ngón cái vào lòng bàn tay, nắm
tay lại với nhau)—Vajra-fist—The hands doubled together on the breast.
Kim Cang Quyền Bồ Tát: Một
trong những vị Bồ Tát trong nhóm Kim Cang—One of the Bodhisattvas in the
Diamond group.
Kim Cang Sát: Vajraksetra
(skt)—Tên gọi các chùa hay tự viện—Buddhist monastery or building.
Kim Cang Tác: Vajrapasa
(skt)—Dây thòng lọng kim cang trong tay của Bất Động Minh Vương—The
diamond lasso or noose in the hand of the subduer of demons
(Arya-achlanatha-raja) and others.
Kim Cang Tác Bồ Tát: Kim Cang
Tác Bồ Tát trong Kim cang Giới Mạn Đồ La, người mang lưới từ bi quấn lấy
tâm hồn của chúng sanh hữu tình—Vajrapasa-bodhisattva in the Vajradhatu
mandala, who carries the snare of compassion to bind the souls of the
living.
Kim Cang Tam Muội:
Vajravimbopama (skt)—Tam muội thông suốt các pháp giống như Phật tánh chân
như. Đây là loại tam muội cao nhất mà người tu Phật có thể đạt được. Nhờ
tam muội nầy mà người tu có thể đoạn diệt cái hình thức vi tế nhất của
phiền não—A samadhi on the idea that all things are of the same
Buddha-nature. This is the highest samadhi attainable by the Buddhist
yogin who by this destroys the subtlest form of the klesa.
** For more information,
please see Kim Cang
Định.
Kim Cang Tạng: Vajragarbha
(skt).
1) Kho
Tạng Kim Cang: The Diamond treasury.
2) Vị Bồ
Tát trong Kinh Lăng Già: The Bodhisattva in the Lankavatara sutra.
Kim Cang Tạng Bồ Tát: Vajra
Treasury Bodhisatva.
Kim Cang Tạng Vương:
1) Kiếp
kế tiếp của Kim cang Tạng Bồ Tát: A form of the next entry of the Vajra
Treasury Bodhisattva.
2) Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni Buddha.
Kim Cang Tát Đỏa:
Vajrasattva-mahasattva (skt)—Kim Cang Thủ.
1) Bí Mật
Chủ Phổ Hiền, vị tổ thứ hai trong tám vị tổ Chân Ngôn, vị tổ thứ nhất là
Đức Đại Nhật Như Lai: A form of P’u-Hsien (Samantabhadra), reckoned as the
second of the eight patriarchs of the Shingon, Vairocana was the first.
2) Các vị
Chấp Kim Cang Thần, hay các vị Bồ Tát, đặc biệt chỉ ngài Kim Cang Nguyệt
Luân ở Đông độ của Kim Cang Mạn Đồ La: All vajra-beings, or
vajra-bodhisattvas; especially those in the moon circle in the east of the
Diamond mandala.
3) Ngài
Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ tát (tiền thân của Đức Phật Thích Ca):
Sakyamuni in a previous incarnation as a vajrasattva.
4) Tất cả
chúng hữu tình đều là “Kim cang Tát Đỏa” vì tất cả đều có Phật tính: All
beings are vajrasattva, because of their Buddha-nature.
5) Tất cả
những người sơ cơ tín hành đều là Kim Cang tát Đỏa: All beginners in the
faith and practice are vajrasattva.
6) Tất cả
quyến thuộc của Ngài A Súc Bệ Phật đều là Kim Cang Tát Đỏa: All the
retinue of Aksobhya are vajrasattva.
7) Bất cứ
vị Đại Phổ Hiền (bất cứ ai thành tựu mười thệ nguyện lớn đều là trưởng tử
Như Lai, và đều được gọi là Phổ Hiền) nào cũng đều là Kim Cang Tát Đỏa:
Any Great P’u-Hsien is a vajrasattva.
Kim Cang Tâm: Cái tâm lớn của
Bồ Tát bền vững và bất hoại như kim cương—Diamond heart, that of a
bodhisattva, i.e. infrangible, unmoved by illusion.
Kim Cang Tâm Điện: Bất Hoại Kim
Cang Quang Minh Tâm Điện hay Kim Cang Giới Mạn Đà La, nơi trụ của Phật Tỳ
Lô Giá Na—The shrine of the indestructible diamond-brillant heart—The
Vajradhatu (mandala) in which Vairocana dwells.
Kim Cang Thân: Kiên Thân (thân
kiên cố)—Chân Thân (thân chân thật)—Thân kim cang bất hoại của Phật—Golden
body—The diamond body, the indestructible body of Buddha.
Kim Cang Thần:
1) Vị
Thần hộ pháp (bảo hộ chư Tăng)—The guardian spirits of the Buddhist
order.
2) Tượng
hộ pháp lớn nơi cổng các tự viện: The large idols at the gate (entrance)
of Buddhist monasteries.
** For more information,
please see Kim
Cang Thủ, Kim Cang
Dạ Xoa, and Kim
Cang Mật Tích.
Kim Cang Thể: Thân thể bền vững
như kim cương, nói về công đức của Phật thân (thân của Như Lai là thể kim
cương. Mọi thứ ác đều đã cắt đứt, mọi điều vui sướng đều đã huân tập)—The
diamond body, that of Buddha and his merit.
Kim Cang Thiên: Vị Trời hộ pháp
trong nhóm Kim Cang Giới—The vajra-deva in the Vajradhatu group.
Kim Cang Thủ: Vajrapani (skt)—
1) Vị
Thần tay cầm Kim Cang Chùy: A holder (protector) of the vajra.
2) Hình
ảnh hay dấu hiệu Kim Cang Chùy: Any image or symbol of a Vajra.
** For more information,
please see Đại
Thắng Kim Cang and
Kim Cang Mật Tích.
Kim Cang Thủy: Nước Kim Cương,
tên một thứ nước mà người thọ giới phải uống khi làm nghi thức quán đảnh
trong Mật Giáo—Diamond or Vajra-water, drunk by a person who receives the
esoteric baptismal rite.
Kim Cang Thừa:Vajrayana
(skt)—Tên khác của tông phái Chân Ngôn, giáo pháp sắc bén như kim cương.
Kim Cang Thừa thường được gọi đơn giản là Phật Giáo Tây Tạng và nó được
chia ra làm bốn tông phái chính: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa và
Gelugpa—The Diamond Vehicle, another name of the Shingon. The Vajrayana is
simply often called Tibetan Buddhism, and it is divided into four main
sects: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa and Gelugpa.
1)
Nyingmapa: Giáo phái Nyingmapa là giáo phái cổ nhất của Phật giáo Tây
Tạng, được ngài Liên Hoa Sinh hay Đạo sư Rinpoche sáng lập vào thế kỷ thứ
8 dưới triều vua Trisong Detsen: The Nyingmapa sect is the oldest Tibetan
Buddhism, founded by Padmasambhava or Guru Rinpoche in the 8th century
under the reign of King Trisong Detsen (742-797).
2)
Kagyupa: Phái Kagyupa được thành lập bởi Marpa Chokyi Lodoe, một dịch giả
Tây Tạng nổi tiếng vào thế kỷ 11 và vị đại đệ tử của ngài là ngài Milarepa
vào thế kỷ thứ 12: The Kagyupa sect was founded by Marpa Chokyi Lodoe
(1012-1099), a famous Tibetan translator in the 11th century and his
outstanding disciple Milarepa (1040-1123) in the 12th century.
3)
Sakyapa: Phái Sakyapa được vị dịch giả Tây Tạng là Drogmi Sakya Yeshe sáng
lập vào thế kỷ thứ 11: The Sakyapa sect was founded by the Tibetan
translator Drogmi Sakya Yeshe (992-1074) in the 11th century.
4)
Gelugpa: Phái Gelugpa là phái trẻ nhất và đông nhất trong các phái Tây
Tạng, được ngài Tông Khách Ba hay Je Rinpoche sáng lập vào thế kỷ thứ 14:
The Gelugpa sect, the youngest and largest among the schools of Tibetan
Buddhism, was founded by Thongkhapa (1357-1419) or Je Rinpoche in the 14th
century.
Kim Cang Tọa: Vajrasana (skt).
1) Kim
Cang Tòa nơi Đức Phật ngồi khi đắc Chánh Đẳng Chánh
Giác—Bodhimanda—Buddha’s seat on attaining enlightenment—The Diamond
throne.
2) Dáng
vẻ lúc ngồi: The posture or manner of sitting.
Kim Cang Trí:
1) For more
information, please see Tự Giác
Thánh Trí.
3)
Kim Cang Trí Pháp Sư—Dharma Master Vajrabodhi:
·
Tên của một vị sư người Tây Ấn, đến Trung Quốc vào
khoảng năm 619 sau Tây Lịch, dưới thời nhà Đường; người ta nói ông chính
là người đầu tiên giới thiệu Du Già Luận và là sơ tổ của Mật Tông tại
Trung Quốc, nhưng có thuyết lại cho rằng chính A Mục Khư Bạt Triết La mới
chính là Sơ Tổ Mật Tông Trung Quốc—Name of an Indian monk who came to
China around 619 A.D., during the T’ang dynasty; he is said to have
introduced the Yogacara system and founded the esoteric school, but this
is attributed to Amoghavajra.
·
Kim Cương Trí (Vajrabodhi 663-723): Ông là người Nam Ấn, học
đạo tại Na Lan Đà. Năm 15 tuổi ông sang Tây Ấn và học tập Nhân Minh Luận
trong bốn năm với Pháp Xứng (Dharmakirti), nhưng trở về Na Lan Đà để thọ
đại giới. Trong sáu năm, ông chuyên học Luật (Vinaya) và trung Quán Luận
(Madhyamika) với Santabodhi, ba năm kế đó ông nghiên cứu Du Già Luận
(Yogacara) của Vô Trước, Duy Thức Luận (Vijnaptimatra) của Thế Thân và
Biện Trung Biên Luận (Madhyanta-vibhanga) của An Huệ (Sthiramati) với
Jinabhadra tati Ca Tỳ La Vệ, vùng Bắc Ấn. Rồi bảy năm sau nghiên cứu Kim
Cang Đảnh (Vajra-sekhara) và các kinh Mật giáo khác với Long Trí
(Nagabodhi) ở Nam Ấn. Sau cùng, ông đáp thuyền theo đường Nam Hải đến Lạc
Dương vào năm 720. Ông dịch thuật nhiều kinh điển quan trọng của Mật
giáo, như Kim Cang Đảnh, vân vân. Năm 741, trong lúc ở Trường An, ông được
phép trở về Ấn Độ nhưng mất trên đường về Lạc Dương: Vajrabodhi came from
South India, became a novice at Nalanda. At the age of fifteen he went to
West India and studied logic for four years under Dharmakirti, but came
again to Nalanda where he received full ordination at twenty. For six
years he devoted himself to the study of Discipline (Vinaya) text and the
Middle Doctrine (Madhyamika) under Santabodhi; for three years he studied
the Yogacara by Asanga, the Vijnaptimatra by Vasubandhu and the
Madhyanta-vibhanga by Sthiramati under Jinabhadra, at Kapilavastu, North
India; and for seven years he studied the Diamond Head (Vajra-sekhara) and
other mystical texts under Nagabodhi, in South India. At last, he sailed
to the southern sea and reached Lo-Yang, China, in 720. He translated
several important mystical texts, such as the Vajra-sekhara. In 741, while
in Ch’ang-An, he obtained permission to return to India, but on his way
he died in Lo-Yang.
Kim Cang Trí Tam Tạng:
Vajrabodhi (skt)—Bạt Viết La Bồ Đề—See Kim Cang Trí (2).
Kim Cang Trượng: See Kim Cang
Chử.
Kim Cang Tuệ: Diamond
wisdom—See Kim Cang Huệ.
Kim Cang Tử: Rudraksa (skt)—Hạt
kim cang để làm chuỗi—A seed similar to a peachstone used for beads.
** For more information,
please see Ác Xoa,
and Ác Xoa Tụ.
Kim Cang Tự: Tên của một ngôi
chùa tọa lạc trong ấp Bình Cang, xã Bình Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long
An, Nam Việt Nam. Chùa Kim cang được dựng lên vào giữa thế kỷ thứ 17 và đã
được trùng tu nhiều lần. Trong chùa hiện còn bản Kinh Kim Cang bằng chữ
Hán được khắc trên gỗ—Name of a pagoda located in Bình Cang hamlet, Bình
Thạnh village, Thủ Thừa district, Long An province, South Vietnam. Kim
Cang Pagoda was built in the middle of the nineteenth century and has been
rebuilt many times. The copies of the Diamond Sutra in Chinese character,
engraved in wood, has still been kept in the pagoda.
Kim Cang Vi Sơn:
1) Núi
Thiết Vi bao quanh thế giới: The concentric iron mountains about the
world.
2) Núi Tu
Di: The Sumeru.
3) Kim
Sơn, tên của một ngọn núi trong huyền thoại: Golden Mountain, name of a
fabulous mountain.
Kim Cang Viêm: See Hỏa Giới and
Hỏa Viện.
Kim Cang Vương: Cái thù thắng
(mạnh nhất và tốt nhất) của kim cang—The Vajra-king, i.e. the strongest,
or finest, e.g. a powerful bull.
Kim Cang Vương Bảo Giác: Ngọc
Ma Ni nẩy nở trong Vô Thượng Giác, đức hiệu của Như Lai Chánh Giác—The
diamond royal-gem enlightenment, i.e. that of the Buddha.
Kim Cang Vương Bồ Tát: Một
trong 16 vị Bồ Tát trong Kim Cang Giới—The Diamond King Bodhisattva, one
of the sixteen bodhisattvas in the Diamond realm.
Kim Chi Ngọc Diệp: Gold
branches and jade leaves—Noble.
Kim Cốt: Xá lợi của Đức
Phật—Golden bons, i.e. Buddha’s relics.
Kim Cương: See Kim Cang.
Kim Đại Vương: Vị Thần bảo hộ
khách lữ hành, Thiên Thủ Quán Âm—Protector of travellers, shown in the
train of the 1,000-hand Kuan-Yin.
Kim Đề: Kanthaka-asvaraja
(skt)—Tên của con ngựa Kiến Trắc mà Đức Phật đã cỡi đi trong đêm xuất
gia—Name of the steed on which Sakyamuni left his home.
Kim Địa: Kim Điền—Tự viện Phật
giáo (do tích trưởng giả Tu Đạt lấy vàng mua Kỳ Viên)—A Buddhist
monastery.
Kim Địa Quốc: Suvarnabhumi
(skt)—Một nước về phía nam thành Hoa Tử, vua A Dục đã gửi đoàn truyền giáo
Phật giáo đến hoằng pháp tại đây—A country south of Sravasti, to which
Akosa sent missionaries.
Kim Gia: Trường phái mà mình
đang theo—The present school—My school or sect.
Kim Hà: See Kim Sa Hà.
Kim Kê: Gà vàng và hạt thóc
trong miệng. Đem gà vàng ví với lời sấm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma—The golden
cock or fowl, with a grain of millet in its beak, a name for Bodhidharma.
Kim Khẩu: The golden mouth of
the Buddha.
Kim Khẩu Quỷ: Châm khẩu quỷ—Quỷ
có cổ nhỏ như cây kim—Needle-mouth ghosts, with mouth so small that they
cannot satisfy their hunger or thurst.
Kim Khu: See Kim Thân.
Kim Lai: The present and the
future.
Kim Lan Cà Sa: See Kim Lan Y.
Kim Lan Y: Kim Sắc Y—Kim Lan Cà
Sa—Áo cà sa dệt bằng sợi vàng—A kasaya or robe embroidered with gold; a
golden robe.
Kim Liên:
1) Hoa
sen vàng: Golden lotus bloom.
2) Tên
của một ngôi chùa cổ, tọa lạc trong làng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ
Liên, Hà Nội, Bắc Việt Nam. Nguyên xưa là chùa Đống Long, dựng từ thời nhà
Trần (1225-1413) trên một nền nhà cũ, nơi công chúa Từ Hoa, con gái vua Lý
Thần Tông ra đời. Về sau chỗ nầy lập trại trồng dâu nuôi tằm nên gọi là
làng Nghi Tàm. Năm 1639, chùa được tu sử lại, gọi là chùa Đại Bi, đến năm
Lê Cảnh Hưng thứ 32 (1771), lại được trùng tu, và chùa được mang tên Kim
Liên từ đó. Vào năm 1792, chùa lại được trùng tu và nhiều lần về sau nầy
nữa. Chùa hiện nay được coi như là di sản kiến trúc thời Tây Sơn. Cổng tam
quan của chùa có kiến trúc gỗ độc đáo, đượm dáng vẻ cung đình. Nổi bậc còn
có những bức chạm trỗ hình rồng và hoa nổi trên mặt gỗ hết sức tinh xảo:
Name of an ancient temple, located in Nghi Tàm hamlet, Quảng An village,
Từ Liêm disrict, Hanoi, North Vietnam. Its old name was Đống Long Temple,
built in the Trần dynasty (1225-1413) on an old floor of a house where
Princess Từ Hoa, King Lý Thần Tông’s daughter, was born. The house was
once turned into a plantation for growing mulberry and silk worms. This is
why the village is called Nghi Tàm. In 1639, the temple was repaired and
renamed Đại Bi. In the thirty-second Lê Cảnh Hưng year (1771), it was
rebuilt again, and given the present name, Kim Lien Temple. In 1792, it
was restored on the larger scale and has been resconstructed many times.
At present, Kim Liên Temple is an architectural artistic vestige of the
Tây Sơn dynasty. The three-entrance gate is of distinctive wooden
structure styled Vietnamese royal palace. Distinguished from the
three-entrance structure are the skillfully carved wooden bas-reliefs
representing the image of flowers and dragons.
Kim Liên Tịch Truyền: Zen
Master Kim Liên Tịch Truyền (1745-1816)—Thiền sư Kim Liên, người Việt Nam,
quê ở Thượng Phước, Bắc Việt. Ngài xuất gia từ thuở bé tại chùa Vân Trai.
Sau dó ngài đến chùa Liên Tông và trở thành đệ tử của ngài Từ Phong Hải
Quýnh. Hầu hết cuộc đời ngài hoằng pháp tại miền Bắc Việt Nam. Ngài thị
tịch năm 1816, thọ 70 tuổi—A Vietnamese Zen master from Thượng Phước,
North Vietnam. He left home and stayed at Vân Trai Temple when he was very
young. Later he went to Liên Tông Temple and became a disciple of Zen
Master Từ Phong Hải Quýnh. He spent most of his life to expand the Buddha
Dharma in North Vietnam. He passed away in 1816, at the age of 70.
Kim Luân:
1) Nơi
thấp nhất của thế giới là phong luân; phong luân dựa vào hư không (bề dầy
là 16 ức do tuần, bền vững như kim cương). Trên phong luân có thủy luân
(sâu 8 ức do tuần). Trên thủy luân có kim luân (dầy 3 ức 2 vạn do tuần do
có hình bánh xe nên gọi là kim luân). Trên kim luân là địa luân (gồm 9 núi
8 biển)—The metal circle on which the earth rests, above the water circle
which is above the wind or air circle which rests on space.
2) Kim
Luân là một trong bảy báu vật của Chuyển Luân Thánh Vương—The cakra or
wheel or disc, emblem of sovereignty, one of the seven precious
possessions of a Cakra-King—See Tứ Luân (D).
Kim Luân Phật Đảnh: See Đại
Thắng Kim Cang.
Kim Luân Phật Đảnh Tôn: Đại Xí
Thạnh Quang—The Great Blazing Perfect Light.
Kim Luân Vương: A Golden-wheel
(cakra) king—See Tứ Luân (D).
Kim Mao Quỷ: Ghosts with needle
hair, distressing to themselves and others.
Kim Mao Sư Tử:
1) Sư tử
lông vàng mà ngài Văn Thù Sư Lợi cỡi—The lion with golden hair on which
Manjusri rides.
2) Sư Tử
lông vàng cũng là tiền thân của Đức Phật: A previous incarnation of the
Buddha.
Kim Môn: Golden door (gate).
Kim Ngân: Gold and silver.
Kim Ngọc: Gold and jade.
Kim Ngôn: Lời vàng của
Phật—Golden words, i.e. those of Buddha.
Kim Nhân: Tượng Phật bằng kim
loại hay bằng vàng—A image of Buddha of metal or gold.
Kim Ô: The sun.
Kim Phật: See Kim Nhân.
Kim Quang: Golden light.
Kim Quang Đồng Tử: Kim Quang
Minh Cổ—Người trẻ tuổi dòng Thích Ca trong thành Ca Tỳ La Vệ, có thân hình
đẹp đẽ như ánh kim quang, xuất gia và gia nhập Tăng đoàn của Đức
Phật—Golden Light Drum—A youth of the Sakya tribe in Kapilavastu, who had
a beautiful golden light body, left home and joined the Order.
Kim Quang Minh: Ánh sáng vàng
chói sáng—The golden light.
Kim Quang Minh Kinh:
Suvarna-prabhasa-uttamaraja (skt)—Kim Quang Minh Kinh được dịch sang Hoa
ngữ vào thế kỷ thứ sáu và hai bản dịch khác về sau nầy (có 3 bản dịch: Đàm
Vô Sám đời Bắc Lương, Nghĩa Tịnh đời Đường, Thiên Thai Trí Giả). Kinh được
sơ tổ tông Thiên Thai là ngài Trí Giả dịch và dùng cho tông phái
mình—Golden Light Sutra, translated in the sixth century and twice later,
used by the founder of T’ien-T’ai.
Kim Quang Minh Nữ: Phu nhân của
Kim Quang Đồng Tử—Wife of Golden Light Drum—See Kim Quang Đồng Tử.
Kim Quang Phật Sát: Cảnh giới
thấp nhất của Phật Giới—The lowest of the Buddha-ksetra.
Kim Quang Tự: Tên của một ngôi
chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Quang ban đầu có tên là Tường Quang, là một
ngôi chùa do dì của Vua Thành Thái là bà Nguyễn Thị Lựu xây dựng năm
1871. Bốn năm sau khi lên ngôi, vua Thành Thái đã sắc tứ biển ngạch đổi
tên là Kim Quang Tự, và cấp tiền để phụng thờ tiên tổ. Hoàng Thái Hậu Từ
Minh, thân mẫu của vua Thành Thái ban tiền để thếp vàng tượng Phật và mở
rộng nhà Tăng cũng như hậu liêu. Sau cơn bão lịch sử năm 1904, chùa bị hư
hại nặng, nên nhà vua cấp tiền trùng tu, qui mô chùa lại một lần nữa đổi
mới. Năm 1962, sư Bích Phong chùa Qui Thiện đôn đốc trùng tu. Năm 1963 sư
Toàn Lạc xây cổng tam quan, trùng tu bình phong, làm cho cảnh chùa trở nên
uy nghi hơn. Chùa Kim Quang gắn liền với họ ngoại của vua Thành Thái. Ảnh
của hai vị vua Thành Thái và Duy Tân đã được thờ trên án thờ phía sau
chùa. Chùa Kim Quang là nơi lưu niệm của hai vì vua yêu nước—Name of an
ancient temple in Huế, Central Vietnam. The temple’s original name was
Tường Quang. It was built in 1871 by one of king Thành Thái’s aunts, Mrs.
Nguyễn Thị Lựu. In 1892, four years after he came to the throne, king
Thành Thái officially recognized the temple and renamed it Kim Quang, and
allotted land for the use of the temple to keep up worship services. The
Từ Minh, the king’s mother, granted money for the statues to be gilted and
the staff house as well as the house enlarged. After the historic storm in
1904, the temple was badly damaged, so the king granted money for an
overall reconstruction. The structure of the temple once more changed for
the better. In 1962, Venerable Bich Phong from Qui Thiện temple
supervised the reconstruction of the temple. In 1963, Venerable Toàn Lạc
built the three-entrance gate, restored the screen wall, giving the temple
a more impressive appearance. Kim Quang temple was closely linked with the
maternal family of king Thành Thái. Portraits of king Thành Thái and king
Duy Tân were positioned on the altar in the back room of the temple. Kim
Quang temple is also a souvenir to the above two patriotic kings.
Kim Quy: Con rùa vàng mà cả thế
giới phải tựa vào—The golden tortoise on which the world rests.
** For more information,
please see Kim
Luân.
Kim Sa: Cát vàng—Golden sand.
Kim Sa Hà: Một dòng sông tưởng
tượng ở Niết Bàn—An imaginary river in the Nirvana.
Kim Sát:
1) Kim
Tháp: A golden pagoda.
2) Cửu
Kim Luân đặt trên đỉnh tháp: The nine golden circles on top of a pagoda.
Kim Sắc: Có màu vàng—Golden
coloured.
Kim Sắc Ca Diếp: Tên của Ngài
Đại Ca Diếp. Ngài có tên Kim Sắc Ca Diếp do bởi tương truyền ngài nuốt ánh
sáng, nên thân tỏa ra kim sắc—Name of Mahakasyapa, as he is said to have
swallowed light, hence his golden hue.
Kim Sắc Khổng Tước Vương: Vị
Thiên Thần hỗ trợ người tu hành, là quyến thuộc của Thiên Thủ Quán Âm—The
golden-hued peacock king, protector of travellers, in the retinue of the
1,000-hand Kuan-Yin.
Kim Sắc Nữ: Công chúa Kim Sắc
Nữ, người mà người ta nói rằng đã ưng chịu Thái Tử Tất Đạt Đa vì màu da
của Ngài giống màu da “kim sắc” của bà—The princess of Varanasi, who is
said to have ben offered in marriage to Sakyamuni because he was of the
same colour as herself.
Kim Sắc Thế Giới: Cõi trời Kim
Sắc hay cõi Tịnh Độ của ngài Văn Thù Sư Lợi—The golden coloured heaven of
Manjusri.
Kim Sắc Vương: Tiền thân của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni—A previous incarnation of the Buddha.
Kim Sắc Y: See Kim Lan Y.
Kim Sơn:
1) Núi
Thiết Vi hay Tu Di: Metal or golden mountain or Sumeru.
2) Thân
Phật: The Buddha’s body.
** For more information,
please see Thất Kim
Sơn.
3) Tên
một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Kim Sơn trước đây tên là Bửu Sơn, rồi
Ngọc Sơn. Không ai biết chùa được xây dựng từ đời nào, nhưng hiện nay tại
sân Bảo Tàng Cổ Vật Huế vẫn còn một tấm bia đá chùa Bửu Sơn đề năm 1667.
Năm 1904, cơn bão lớn đã làm cho chùa sụp đổ. Qua năm 1908, vua Duy Tân
cho đem tượng Phật và pháp khí về chùa Thiên Mụ. Trên nền cũ chỉ dựng lại
một nhà từ đường để thờ những vị Tăng quá cố. Vào khoảng cuối thập niên
1970s, chùa được tái thiết, vẫn tọa lạc trên ngọn đồi tròn thuộc làng Bảo
Hựu, cuối một dãy đồi thấp về phía tây của Huế—Name of an ancient temple
in Huế, Central Vietnam. The temple was first named Bửu Sơn, then Ngọc
Sơn. No one knows when the temple was built; however, there is still a
stele of the temple positioned in the yard of the Museum of Historic
Antiques of Huế which dated 1667. In 1904, a big storm badly damaged the
temple. In 1908, king Duy Tân ordered to dismantle the temple and to
transfer Buddha statues and ritual instruments to Thiên Mụ temple. On the
old side, only a worhsip house was built for the worship of the dead
monks. In the 1970s, the temple was rebuilt on the the round hill at Bảo
Hựu village, at one end of a range of low hills west of Huế.
Kim Sơn Vương: Phật, đặc biệt
là Phật A Di Đà—Buddha, especially Amitabha.
Kim Tạng: Kim Tạng là tạng chứa
châu báu vàng bạc, như là Phật tánh trong mỗi chúng sanh—Golden treasury,
i.e. the Buddha-natue in all the living.
Kim Tạng Vân: Khi Hiền Kiếp mới
hình thành, giữa bầu trời Quang Âm đầy mây kim sắc (sắc vàng), mang lại
trận mưa đầu tiên—The first golden treasury cloud when a new world is
completed, arising in the abhasvara heaven and bringing the first rain.
Kim Thai: See Kim Cang Giới
Thai Tạng Giới.
Kim Thân: Thân Kim Sắc của Đức
Phật—The golden body or person, that of Buddha—The whole body of the
Buddha.
Kim Thóc Như Lai:
1) Kim
Thóc Như Lai: Hạt thóc vàng Như Lai—The golden grain Tathagata.
2) Danh
hiệu của Duy Ma Cật trong một tiền kiếp: A title of Vimalakirti in a
previous incarnation.
Kim Thời: Present time.
Kim Thủy: Nước vàng, ám chỉ trí
tuệ—Golden water, i.e. wisdom.
Kim Tiên:
1) Thần
Tiên: Golden rsi or immortal.
2) Người
tu Tiên (đạo Lão): Taoist genii.
3) Tiếng
tôn xưng để gọi Đức Phật: A venerable term for Buddha.
4) Tên
của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Tuy không phải là tổ đình của một
hệ phái nào nhưng chùa Kim Tiên là một ngôi chùa được xây dựng rất sớm ở
Huế. Hòa Thượng Bích Phong là vị sư đầu tiên trùng tu chùa Kim Tiên vào
khoảng thế kỷ 17. Sau đó chùa trở thành phế tích, chỉ còn là một mái thảo
am. Đến khoảng giữa triều Gia Long, Hòa Thượng Đức Hóa tái thiết lại mái
thảo am. Mấy mươi năm sau, dưới triều Tự Đức, chùa được Hòa Thượng Thánh
Thông Nhất Trí, một Tăng Cang của triều đình tại chùa Thiên Mụ trùng tu
chùa trên qui mô rộng lớn hơn, và giao cho Hòa Thượng Tâm Chính Hải Từ trụ
trì. Năm 1888, Hòa Thượng Hải Từ với sự trợ giúp của Hòa Thượng Diệu Giác
đã tái thiết ngôi chùa lần nữa. Năm 1930, chùa được Hòa Thượng Thanh Đức
Tâm Khoan, Tăng Cang chùa Diệu Đế trùng tu lần nữa. Sau đó Hòa Thượng Hưng
Mãn Trừng Gia trùng tu lại chánh điện, tái thiết phương trượng, xây dựng
lại Tăng xá, hậu liêu. Ngày nay, dù chùa đã trải qua nhiều cuộc trùng tu
nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính—Name od an old temple in Huế,
Central Vietnam. Though it is not a temple that has relations with a
certain venerable patriarch of a Buddhist sect, Kim Tiên was one of the
oldest temples in Huế. Most Venerable Bích Phong was the first monk who
rebuilt the temple in the seventeenth century. Sometime later, the temple
became a ruin, only a thatched small temple survived. In the middle of
King Gia Long'’ reign, Most Venerable Đức Hóa Đạo Thành rehabilitated the
thatched temple in a small structure. Several decades later, during the
reign of king Tự Đức, the temple was rebuilt on a larger scale by Most
Venerable Tánh Thông Nhất Trí, who was a royal-recognized monk of Thiên Mụ
Temple. In 1888, with the help of Most Venerable Diệu Giác, Most venerable
Tâm Chính Hải Từ rebuilt the temple again. In 1930, Most Venerable Thanh
Đức Tâm Khoan, a royal-recognized monk from Diệu Đế temple rebuilt the
temple again. Though it has been rebuilt so many times, it still maintains
its ancient architectural style.
Kim Tinh:
1) Sukra
(skt)—The planet Venus.
2) Tóc
của Phật: The Buddha’s hair.
Kim Trượng: Đức Phật lấy cây
gậy và mảnh áo xé (thụ ký việc chia thành 18 bộ Tiểu Thừa trong giấc mơ
của vua Tần Bà Sa La thấy một chiếc áo bị xé làm 18 mảnh, một cây gậy vàng
gẫy thành 18 đoạn. Ông lo sợ bèn hỏi Đức Phật. Đức Phật nói: “Sau khi ta
diệt độ hơn 100 năm sẽ có vị vua tên A Dục uy danh lẫy lừng. Lúc ấy về
Luật thì chia làm 18 môn phái khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn là tu giải
thoát)—The golden staff broken into eighteen pieces and the skirt
similarly torn, seen in a dream by king Bimbisara (eighteen divisions of
Hinayana as in a dream of King Bimbisara).
Kim Tự Tháp: Pyramid.
Kim Tỳ La: Kumbhira (skt)—Kim
Ba La-Cấm Tỳ La.
1) Cá
Sấu—A crocodile—Alligator.
2) Vua Dạ
Xoa, quy-y và trở thành vị hộ pháp: A Yaksa-king, who was converted and
became a guardian of Buddhism.
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La: Kampilla
(skt)—Kim Tỳ La Thần—Kim Tỳ La Đại Tướng.
1) Quyến
thuộc của Thiên Thủ Quán Âm: The retinue of 1,000-hand Kuan-Yin.
2) Kim Tỳ
La Tỳ Kheo: Một vị sư Ấn Độ: An Indian monk.
Kim Văn: Modern literature.
Kim Viên: Thuật ngữ mà tông
Thiên Thai dùng để chỉ “viên giáo” của Pháp Hoa, so với Tích Viên trước
đó—A T’ien-T’ai term indicating the “perfect” teaching, that of the Lotus,
as compared with the old “perfect” teaching which preceded it.
Kim Xí Điểu Vương: Garuda-raja
(skt)—Ca Lâu La Vương.
1) Vua
của loài chim Kim Xí (Loài chim thù thắng nhất trong các loài chim Kim
Xí), bạn đồng hành của thần Visnu—The king of birds, with golden wings,
companion of Visnu.
2) Kim Xí
Điểu Vương còn được dùng để ví với các bậc đại nhân, trong khi tiểu nhân
được ví với loài quạ: Garuda-raja or king of birds are used to compare
with the great people, while the crow are used to compare with the wicked
people.
3) Kim Xí
Điểu Vương còn để chỉ Đức Phật: The king of birds is a symbol of the
Buddha.
Kín: Secret.
Kinh:
1) Gai:
Thorns.
2) Sutras
(skt)—Sutta (p)—Prayer book—Nghĩa đen của tiếng Phạn là “sợi chỉ xâu các
hạt châu.” Kinh là Thánh Thư của Phật giáo, tức là những cuộc đối thoại có
định hướng, những bài thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni. Người ta nói
có hơn vạn quyển, nhưng chỉ một phần nhỏ được dịch ra Anh ngữ. Các kinh
Tiểu Thừa được ghi lại bằng tiếng Pali hay Nam Phạn, và các kinh Đại Thừa
được ghi lại bằng tiếng Sanskrit hay Bắc Phạn. Đa số các tông phái Phật
giáo được sáng lập theo một kinh riêng từ đó họ rút ra uy lực cho tông
phái mình. Phái Thiên Thai và Pháp Hoa (Nhật Liên Tông ở Nhật—Nichiren in
Japan) thì dùng Kinh Pháp Hoa; Tông Hoa Nghiêm thì dùng Kinh Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, Thiền Tông không liên hệ với kinh nào cả, điều nầy cho phép các
thiền sư tự do sử dụng các kinh tùy ý khi các thầy thấy thích hợp, hoặc có
khi các thầy không dùng bộ kinh nào cả. Có một câu quen thuộc trong nhà
Thiền là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền,” nghĩa là không theo
ngôn ngữ văn tự, giáo lý biệt truyền ngoài kinh điển. Điều nầy chỉ có
nghĩa là với Thiền Tông, chân lý phải được lãnh hội trực tiếp và không
theo uy thế của bất cứ thứ gì ngay cả uy thế của kinh điển—Literally sutra
means a thread on which jewles are strung. The sutras are Buddhist
scriptures, that is, the purported dialogues and sermons of sakyamuni
Buddha. There are said to be over ten thousand, only a fraction of which
have been translated into English. The so-called Hinayana were originally
recorded in Pali, the Mahayana in Sanskrit. Most Buddhist sects are
founded upon one particular sutra from which they derive their authority.
The T’ien-T’ai and Lotus Sects from the Lotus sutra; the Hua-yen from the
Avatamsaka Sutra. The Zen sects, however, is associated with no sutra, and
this gives Zen masters freedom to use the scriptures as and when they see
fit or to ignore them entirely. There is a familiar statement that Zen is
a special transmission outside the scriptures, with no dependence upon
words and letters. This only means that for the Zen sect, truth must be
directly grasped and not taken on the authoriry of any thing, even the
sutras.
Kinh A Di Đà: Sukhavati Vyuha
Sutra—Một trong ba bộ kinh chủ yếu của trường phái Tịnh Độ. Kinh được Ngài
Cưu Ma La Thập dịch sang Hán tự—Sutra of Amitabha—Short form of Amitabha
Sutra. One of the three basic sutras of the Pure Land sect. It was
translated into Chinese by Kumarajiva. This is the short form of Amitabha
Sutra.
** See Kinh A Di Đà trong phần Appendix A.
Kinh A Di Đà Bổn Nguyện: Longer
Sukhavativyuha Sutra—Longer Amitabha Sutra—See Tây Phương Cực Lạc và Kinh
A Di Đà.
Kinh A Di Đà Tiểu Bổn:
Sukhavati-vyuha (skt)—Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là một bản toát yếu hay trích
yếu của Đại phẩm Đại Vô Lượng Thọ Kinh (Sukhavati-Vyuha). Bộ chót trong số
ba kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh (Amitayr-dhyana-sutra) cho chúng ta biết
nguyên lai của giáo lý Tịnh Độ do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết. Nguyên
do Đức Phật thuyết Kinh A Di Đà là khi thái tử A Xà Thế nổi loạn chống
lại vua cha là Tần Bà Sa La và hạ ngục nhà vua nầy. Hoàng hậu Vi Đề Ha
cũng bị giam vào một nơi. Sau đó Hoàng Hậu thỉnh Đức Phật chỉ cho bà một
chỗ tốt đẹp hơn, nơi không có những tai biến xãy ra như vậy. Đức Thế Tôn
liền hiện thân trước mặt bà và thị hiện cho thấy tất cả các Phật độ, và bà
chọn quốc độ của Đức Phật A Di Đà coi như là tối hảo. Phật bèn dạy bà cách
tụng niệm về quốc độ nầy để sau cùng được thác sanh vào đó. Ngài dạy bà
bằng giáo pháp riêng của Ngài, và đồng thời giảng giáo pháp của Phật A Di
Đà. Đức Phật đã căn dặn ngài A Nan như sau: “Này A Nan! Hãy ghi nhớ bài
thuyết pháp nầy và lặp lại cho đại chúng ở Kỳ Xà Quật nghe. Thuyết giáo
nầy, ta gọi đấy là Kinh A Di Đà.” Đối tượng của bài thuyết pháp nầy của
Phật là sự tôn thờ Phật A Di Đà, và từ đó chúng ta cũng thấy rằng giáo
thuyết của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cuối cùng cũng không khác với giáo
thuyết của Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà Tiểu Bổn là giáo tụng chính yếu của
tông Tịnh Độ. Theo Tịnh Độ tông, việc chuyên tâm niệm Phật là cần thiết để
đào sâu đức tin, vì nếu không có đức tin nầy thì không bao giờ có sự cứu
độ trọn vẹn—The smaller text of Sukhavati-vyuha is a résumé or abridged
text of the larger one. The last of the three texts, the Amitayur-dhyana
Sutra, tells us the origin of the Pure Land doctrine taught by Sakyamuni
Buddha. The reason for the Buddha to preach this sutra was from the
following story, Ajatasatru, the prince heir-apparent of Rajagriha,
revolted against his father, King Bimbisara, and imprisoned him. His
consort, Vaidehi, toow was confined to a room. Thereupon the Queen asked
the Buddha to show her a better place where no such calamities could be
encountered. The World-Honored One appeared before her and showed all the
Buddha lands and she chose the Land of Amitabha as the best of all. The
Buddha then taught her how to meditate upon it and finally to be admitted
there. He instructed her by his own way of teaching and at the same time
by the special teaching of Amitabha. That both teachings were one in the
end could be seen from the words he spoke to Ananda at the conclusion of
his sermons. “Oh Ananda! Remember this sermon and rehearse it to the
assembly on the Vulture Peak. By this sermon, I mean the name of
Amitabha." ” From this we can see that the object of the sermon was the
adoration of Amitabha. Thus, we see that Sakyamuni Buddha’s teaching was
after all not different from that of Amitabha. The smaller Sakhavati-vyuha
is the main text for reciting of the Pure Land Sect. With the Pure Land,
the devotional repetition of the Buddha's name is a necessary action of
the pious to deepen the faith, without which salvation will never be
complete.
** For more information,
please see Kinh A Di
Đà in Appendix A.
Kinh A Dục Vương: Asokaraja
Sutra (skt)—Kinh nói về vua A Dục, vị vua thứ ba của triều đại Mauryan của
xứ Ma Kiệt Đà, thuộc Trung Ấn. Một quân vương Phật tử đã cải từ Ấn giáo
sang đạo Phật sau cuộc trường chinh—The sutra written about the life of
King Asoka, a Buddhist ruler and the third king of the Maurya Dynasty of
Magadha, in central India. He converted from Hinduism to Buddhism after a
long period of war and conquest.
Kinh A Hàm: Agamas (for
Hinayana).
Kinh Bát Châu Tam Muội:
Pratyutpannabuddhasammukha-Vasthitasamadhi-Sutra—Kinh nói về trạng thái
tâm linh được dùng để quán tưởng các vị Phật hay quán chư Phật hiện tiền
Tam muội. Kinh được Ngài Chi Lô Ca Sám dịch sanh Hán tự—The sutra shows
ways of contemplations of any Buddhas. The sutra was translated into
Chinese by Lokaksema.
Kinh Bát Đại Nhân Giác: Sutra
on the Eight Awakenings of Great People.
(A) Lịch sử
và công năng của Kinh Bát Đại Nhân Giác—History and usage of the Sutra on
the Eight Awakenings of Great People:
a) Sa môn
An Thế Cao, người Parthia, dịch từ Phạn sang Hán vào khoảng năm 150 sau
Tây Lịch (đời Hậu Hán) tại Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương . Hòa Thượng
Thích Thanh Từ dịch từ Hán sang Việt vào khoảng thập niên 70s. Nguyên văn
bản kinh bằng Phạn ngữ không biết còn lưu truyền tới ngày nay hay không.
Kinh nầy thích hợp với cả hai truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy và Đại
Thừa—Shramana An Shi Kao, a Partian monk, translated from Sanskrit into
Chinese in about 150 A.D. (during the Later Han Dynasty). Most Venerable
Thích Thanh Từ translated from Chinese into Vietnamese in the 1970s. The
original text of this sutra in Sanskrit is still extant to this day. This
sutra is entirely in accord with both the Theravada and Mahayana
traditions.
b) Kỳ
thật, từng điều trong tám điều giác ngộ của các bậc vĩ nhân trong kinh nầy
có thể được coi như là đề tài thiền quán mà hàng Phật tử chúng ta, đêm lẫn
ngày hằng giữ thọ trì, chí thành tụng niệm ghi nhớ, tám điều giác ngộ của
các bậc vĩ nhân—In fact, each of the eight items in this sutra can be
considered as a subject of meditation which Buddhist disciples should at
all times, by day and by night, with a sincere attitude, recite and keep
in mind eight truths that all great people awaken to.
c) Tám
Chơn Lý mà chư Phật, chư Bồ Tát và các bật vĩ nhân đã từng giác ngộ. Sau
khi giác ngộ, các vị ấy lại tiến tu vô ngần từ bi đạo hạnh để tăng trưởng
trí huệ. Dùng thuyền Pháp Thân thong dong dạo chơi cõi Niết Bàn, chỉ trở
vào biển sanh tử theo đại nguyện cứu độ chúng sanh. Các bậc nầy lại dùng
tám Điều Giác Ngộ để khai lối dắt dìu chúng sanh, khiến cho ai nấy đều
biết rành sự khổ não của tử sanh sanh tử, để từ đó can đảm xa lìa ngũ dục
bợn nhơ mà quyết tâm tu theo Đạo Thánh—Eight Truths that all Buddhas,
Bodhisattvas and great people awaken to. After awakening, they then
energetically cultivate the Way. By steeping themselves in kindness and
compassion, they grow wisdom. They sail the Dharma-body ship all the way
across to Nirvana’s other shore, only to re-enter the sea of death and
rebirth to rescue all living beings. They use these Eight Truths to point
out the right road to all beings and in this way, help them to recognize
the anguish of death and rebirth. They inspire all to cast off and forsake
the Five Desires, and instead to cultivate their minds in the way of all
Sages.
d) Nếu là
Phật tử phải nên luôn trì tụng kinh nầy, hằng đêm thường trì tụng và nghĩ
tưởng đến tám điều nầy trong mỗi niệm, thì bao nhiêu tội lỗi thảy đều tiêu
sạch, thong dong tiến vào nẻo Bồ Đề, nhanh chóng giác ngộ, mãi mãi thoát
ly sanh tử, và thường trụ nơi an lạc vĩnh cửu—If Buddhist disciples recite
this Sutra on the Eight Awakenings, and constantly ponder its meaning,
they will certainly eradicate boundless offenses, advance toward Bodhi,
quickly realize Proper Enlightenment, forever be free of death and
rebirth, and eternally abide in joy.
(B) Hình thức
của kinh—The form of the sutra: Xét về phương diện hình thức thì kinh văn
rất đơn giản. Kinh văn rất cổ, văn thể của kinh thuộc loại kết tập như
Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Lục Độ Tập. Tuy nhiên, nội dung của kinh
rất sâu sắc nhiệm mầu—The form of the sutra is very simple. The text form
is ancient, just like the Forty-Two Chapters and the Sutra on the Six
Paramitas. However, its content is extremely profound and marvelous.
(C) Nội dung
của kinh—The content of the Sutra:
1) Điều
Giác Ngộ thứ nhất—The First Awakening:
·
Đời vô thường quốc độ bở dòn—The world is impermanent,
countries are perilous and fragile.
·
Tứ đại khổ không—The body’s four elements are a source of
pain; ultimately, they are empty.
·
Năm ấm vô ngã có còn chi đâu—The Five Aggregates (Skandhas)
are not me.
·
Đổi đời sanh diệt chẳng lâu—Death and rebirth are simply a
series of transformations.
·
Giả dối không chủ lý mầu khó tin—Misleading, unreal, and
uncontrollable.
·
Tâm là nguồn ác xuất sanh—The mind is the wellspring of
evil.
·
Thân hình rừng tội mà mình chẳng hay—The body is the
breeding ground of offenses.
·
Người nào quán sát thế nầy—Whoever can investigate and
contemplate these truths,
·
Lần hồi sanh tử sớm chầy thoát ra—Will gradually break free
of death and rebirth.
2) Điều
Giác Ngộ thứ hai—The Second Awakening:
·
Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm nhiều—Too much desire brings
pain.
·
Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu—Death and rebirth are tiresome
ordeals.
·
Bởi do tham dục, mà chiêu khổ nầy—They stem from our
thoughts of greed and desire.
·
Bớt lòng tham dục chẳng gây—By reducing desires.
·
Thân tâm tụ tại vui nầy ai hơn—We can realize absolute truth
and enjoy independence and well-being in both body and mind.
3)
Điều Giác Ngộ thứ ba—The Third Awakening:
·
Đắm mê trần mải miết chẳng dừng—Our minds are never
satisfied or content with just enough.
·
Một bề cầu được vô chừng—The more we obtain, the more we
want.
·
Tội kia thêm lớn có ngừng được đâu—Thus we create offenses
and do evil deeds.
·
Những hàng Bồ Tát hiểu sâu—Bodhisattvas do not make
mistakes.
·
Nhớ cầu tri túc chẳng lâu chẳng sờn—Instead, they are always
content.
·
Cam nghèo giữ đạo là hơn—Nurture the way by living a quiet
life in humble surroundings.
·
Lầu cao trí huệ chẳng khờn dựng lên—Their sole occupation is
cultivating wisdom.
4)
Điều Giác Ngộ thứ tư—The Fourth Awakening:
·
Kẻ biếng lười hạ liệt trầm luân—Idleness and self-indulgence
will be our downfall.
·
Thường tu tinh tấn vui mừng—With unflagging vigor,
·
Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều đời—Great people break
through their afflictions and baseness.
·
Bốn ma hàng phục như chơi—They vanquish and humble the Four
Kinds of Demons.
·
Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra ngoài—And they escape from the
prison of the Five Skandhas.
5)
Điều Giác Ngộ thứ năm—The Fifth Awakening:
·
Ngu si là gốc khổ luân hồi—Stupidity and ignorance are the
cause of death and rebirth.
·
Bồ Tát thường nhớ không ngơi—Bodhisattvas are always
attentive to.
·
Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút nào—And appreciative of
extensive study and erudition.
·
Vun bồi trí tuệ càng cao—They strive to expand their wisdom.
·
Biện tài đầy đủ công lao chóng thành—And refine their
eloquence.
·
Đặng đem giáo hóa chúng sanh—Teaching and transfoming living
beings.
·
Niết bàn an lạc còn lành nào hơn—Nothing brings them greater
joy than this.
6)
Điều Giác Ngộ thứ sáu—The Sixth Awakening:
·
Người khổ nghèo lắm kết oán hờn—The suffering of poverty
breeds deep resentment.
·
Không duyên tạo tác ác đâu sờn—Wealth unfairly distributed
creates ill-will and conflict among people.
·
Bồ Tát bố thí, ai hơn kẻ nầy, lòng không còn thấy kia
đây—So, Bodhisattvas practice giving and treat friend and foe alike.
·
Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào. Dù nguời làm ác biết bao,
một lòng thương xót khổ đau cứu giùm—They neither harbor grudges nor
despite evil-natured poeple.
7) Điều
Giác Ngộ Thứ Bảy—The Seventh Awakening:
·
Năm dục gây lầm lỗi ngất trời. Tuy người thế tục ngoài
đời—Great people, even as laity, are not blightly by worldly pleasures.
·
Mà lòng không nhiễm vui chơi thế tình, ba y thường nhớ của
mình, ngày nào sẽ được ôm bình ngao du—Instead, they constantly aspire to
take up the three precepts-robes and blessing-bowl of the monastic life.
·
Chí mong lìa tục đi tu, đạo gìn trong sạch chẳng lu không
mờ—Their ideal and ambition is to leave the household and family life to
cultivate the way in immaculate purity.
·
Hạnh lành cao vút kính thờ, thương yêu tất cả không bờ bến
đâu—Their virtuous qualities are lofty and sublime; their attitudes toward
all creatures are kind and compassionate.
8) Điều
Giác Ngộ Thứ Tám—The Eighth Awakening:
·
Tử sanh hoài đau khổ vô cùng—Rebirth and death are beset
with measureless suffering and afflictions, like a blazing fire.
·
Phát tâm dõng mãnh đại hùng—Thus, great people make the
resolve to cultivate the Great Vehicle.
·
Quyết lòng độ hết đồng chung Niết bàn—To rescue all beings.
·
Thà mình chịu khổ muôn vàn, thay cho tất cả an nhàn thảnh
thơi—To endure endless hardship while standing in for others.
·
Mọi người đều được vui tươi, đến bờ giác ngộ rạng ngời hào
quang—To lead everyone to ultimate happiness.
** For more information,
please see Bát Đại
Nhân Giác.
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh:
Prajnaparamitahrdaya-Sutra—Bát Nhã Ba La Mât Đa Tâm Kinh hay gọi tắt là
Tâm Kinh, là phần kinh ngắn nhất trong 40 kinh tạo thành Đại Bát Nhã Ba La
Mật Đa Kinh. Đây là một trong những kinh văn quan trọng nhất trong Phật
giáo Đại thừa. Kinh được nhấn mạnh về tánh không. Kinh thường được các
Phật tử tụng thuộc lào trong các tự viện. Một trong những câu nổi tiếng
trong kinh là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” (hình thức chỉ là hư
không, hư không chỉ là hình thức), một công thức được lập đi lập lại trong
nhà thiền. Toàn bộ văn kinh của Bát Nhã Ba La Mật có nghĩa là “trí huệ đáo
bỉ ngạn.” Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sang Hán tự—The Heart of the
Prajna-Paramita-Sutra or Heart Sutra, the shortest of the forty sutras
that constitute the Prajanparamita-sutra. It is one of the most important
sutras of Mahayana Buddhism. The sutra is especially emphasized on
emptiness (Shunyata). It is recited so frequently in the temple that most
Buddhists chant it from memory. One of the most famous sentences in the
sutra is “Form is no other than emptiness; emptiness is no other than
form,” an affirmation that is frequently referred to in Zen. The
Prajna-Paramita Heart Sutra literally means “the wisdom that leads to the
other shore.” The sutra was translated into Chinese by Hsuan-Tsang.
** See Bát Nhã Tâm Kinh
trong phần
Appendix A.
Kinh Biệt Giải Thoát:
Pratimoksa sutra (skt)—Kinh Biệt Giải Thoát là cốt lõi của Tạng Luật. Đây
là phần cổ xưa nhất của Luật Tạng bằng tiếng Ba Li—Pratimoksa sutra is the
nucleus of the Vinaya-pitaka. It is the oldest part of the Pali Pitaka—See
Cụ Túc Giới Tỳ Kheo in Vietnamese-English Section, and Pratimoksa and
Pratimoksa-sutra in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kinh Bồ Đề Hành Kinh:
Bodhicaryavatara Sutra—Kinh nói về “Đi vào con đường Giác Ngộ” được Ngài
Long Thọ soạn—Entering the Path of Enlightenment, composed by Nagarjuna.
Kinh Bổn: Sutra (skt)—Kinh điển
trong Tam Tạng được Đức Phật thuyết giảng—The sutras in the Tripitaka are
the sermons attributed to the Buddha.
**For more information,
please see Kinh.
Kinh Bổn Sanh: Jataka—Kinh nói
chi tiết về tiền thân Đức Phật, các đệ tử cũng như những kẻ chống phá
Ngài. Kinh chỉ bày những hành động trong tiền kiếp ảnh hưởng thế nào đến
những hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại theo đúng luật nghiệp
quả—Narratives of birth stories detail past (previous) lives of the Buddha
and of his followers and foes. The sutra shows how the acts of previous
lives influence the circumstances of the present life according to the law
of karma.
Kinh Bổn Sự:
Itvritaka—Narratives of past lives of the Buddha’s disciples.
Kinh Chúng Tập: Sangiti Sutta
(p).
Kinh Cô Khởi: Phúng
Tụng—Gatha—Verses containing ideas not expressed in prose.
Kinh Di Bộ Tông Luân Luận:
Samayabhedo Sutra—Kinh được soạn bởi Ngài Thế Hữu vào khoảng 100 năm sau
khi Phật nhập diệt, sau được Ngài Huyền Trang dịch ra Hoa ngữ, nói về thời
kỳ phân rẽ thành hai phái của Phật giáo là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng
Bộ—The sutra was composed by Vasumitra about 100 years after the death of
the Buddha, later was translated into Chinese by Hsuan-Tsang. The sutra
mentioned about the first division of Buddhism into two divisions: The
Theravada (elder monks or intimate disciples) and Mahasanghika (general
body of disciples).
Kinh Dị: Frightened.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Saddharma-pundarika-Sutra (skt)— Wonderful Law Lotus Flower—The Lotus of
the True Law—Thời gian giữa Đại Hội Kết Tập lần thứ nhì và thế kỷ thứ nhất
trước Tây Lịch, văn hóa Đại Thừa phát triển tại Ấn Độ và sự phổ biến một
số kinh điển quan trọng. Sau đó là hàng trăm kinh điển Đại Thừa được viết
bằng tiếng Phạn xuất hiện. Liên Hoa Kinh, được viết vào thế kỷ thứ nhất
sau Tây Lịch, một trong những kinh chính của Phật giáo Đại thừa vì nó chứa
đựng những ý tưởng chủ yếu của Đại thừa, ý tưởng về bản chất siêu việt của
Phật và việc phổ cứu chúng sanh. Trong nhiều phương diện, kinh Pháp Hoa
được xem là kinh căn bản của truyền thống Phật giáo Đại Thừa. Kinh nầy ảnh
hưởng rất lớn đến thế giới Phật tử Đại Thừa, không những chỉ ở Ấn Độ mà
còn tại các xứ khác như Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam, qua các tông
Thiên Thai, Nhật Liên và những tông khác. Hơn nữa, kinh nầy dẫn giải con
đường từ bi vô lượng, cũng như cốt lõi hướng đi căn bản của truyền thống
Đại Thừa, đó là tâm đại từ bi. Phật giáo Đại thừa coi Kinh Liên Hoa là bộ
kinh chứa đựng toàn bộ học thuyết của Phật. Kinh nầy được Phật thuyết
giảng trên núi Linh Thứu. Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn
trong giáo pháp của Phật. Ý nghĩa của kinh nầy là Đức Phật đã gom tam thừa
Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát về một thừa duy nhất là Phật Thừa. Trong
kinh nầy Đức Phật đã giải thích rõ ràng về nhiều phương pháp đạt tới đại
giác như Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, v.v. chỉ là những phương tiện được
đặt ra cho thích hợp với trình độ của từng người. Thật ra chỉ có một cỗ xe
duy nhất: Phật thừa dẫn đến đại giác cho chúng sanh mọi loài. Kinh Pháp
Hoa tiêu biểu cho giai đoạn chuyển tiếp từ Phật giáo Tiểu Thừa sang Đại
Thừa. Phần lớn kinh được dùng để chứng minh rằng Đức Phật đã giảng giáo
pháp Tiểu Thừa cho lớp người đầu óc thấp kém, vì đối với những người nầy
không thể giải bày toàn bộ chân lý được. Các Phật tử Tiểu Thừa được Phật
khuyên nên hành trì ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hay các phép tu dẫn đến sự
giác ngộ để rũ sạch phiền não, nên hiểu rõ Tứ Diệu Đế, luật Nhân Quả và
nhận thức Nhân Không hay Vô Ngã, để qua đó có thể đạt được niết bàn. Sau
đó Đức Phật nhấn mạnh rằng những người nầy cần nỗ lực thêm nữa ở đời sau,
tạo được những công đức và phẩm hạnh cần thiết của một vị Bồ Tát để chứng
đắc Phật quả. Kinh được Ngài Dharmaraksa dịch ra Hán văn năm 268 và Cưu Ma
La Thập dịch năm 383. Chúng ta nên nhớ rằng Kinh Pháp Hoa, nguyên đã được
ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch thành bảy quyển gồm 27 phẩm. Pháp Hiển, tìm
kiếm một phẩm nữa nên du hành sang Ấn Độ vào năm 475. Khi đến Khotan, ông
tìm thấy phẩm về Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa là anh họ và cũng là kẻ phá
hoại Phật. Ông trở về, và yêu cầu Pháp Ý, người Ấn, phiên dịch phẩm nầy.
Phẩm nầy về sau được phụ thêm vào bản kinh trước. Do đó kinh Pháp Hoa hiện
thời có 28 phẩm. Năm 602 hai vị Jnanagupta và Dharmagupta cũng dịch bộ
kinh nầy sang Hán văn—The period between the Second Council and the first
century B.C., Mahayana literature developed in India, and the emergence of
a number of important texts. After that, hundreds of Mahayana sutras were
composed in Sanskrit. Sutra of the Lotus Flower, sutra of the Lotus of the
Good Dharma, written in the first century A.D., one of the most important
sutras of Mahayana Buddhism because it contains the essential teachings of
Mahayana, including the doctrines of the transcendental nature of the
buddha and of the possiblity of universal liberation. In many ways, the
Lotus is the foundation sutra of the Mahayana tradition. It has great
influence in the Mahayana Buddhist world, not only in India, but also in
China, Japan, and Vietnam, where it is the favorite text of the
T’ien-T’ai, Nichiren and some other schools. Moreover, it expounds the way
of great compassion, the lotus sutra represents the essence of the
Mahayana tradition’s fundamental orientation, which is great compassion.
It is considered in the Mahayana as that sutra that contains the
complete teaching of the Buddha. The Lotus Sutra is a discourse of the
Buddha on Vulture Peak Mountain. Dharma Flower Sutra or the Maha
Saddharma-pundarika Sutra, or the Lotus Sutra, is one of the greatest
sutras taught by the Buddha. Its significance is that the Buddha united
all three vehicles of Sravaka-Yana (Sound-Hearer Vehicle),
Pratyeka-Buddha-Yana, and Bodhisattva-Yana and said there is only one
vehicle and that is the vehicle of Buddhahood. In it the Buddha shows
that there are many methods through which a being can attain
enlightenment such as shravaska, pratyekabuddha and bodhisattva, etc.
These are only expedients adapted to varying capabilities of beings. In
reality, there is only one vehicle: Buddhayana (Buddha vehicle), which
leads all beings to enlightenment, including Mahayana and Hinayana. The
Saddharma-pundarika sutra represents the period of transition from
Hinayana to Mahayana Buddhism. A large part of this sutra is devoted to
proving that Hinayana Buddhism was preached by the Buddha for the benefit
of people of lower intelligence, to whom the whole truth was not divulged.
Hinayana Buddhists were adivised to practise the thirty-seven limbs of
enlightenment in order to rid themselves of moral impurities, to
comprehend the Four Noble Truths and the Law of Causation, and to realize
the absence of soul or individuality whereby they can reach a place of
rest or nirvana. The Buddha then advises those who had reached perfection
in these attainments, to exert themselves further in their future
existences in order to acquire the merits and virtues prescribed for the
Bodhisattvas for the attainment of Buddhahood. The sutra was translated
into Chinese by Kumarajiva. We should bear in mind that the Lotus Sutra
was originally translated into Chinse by Dharmaraksa in 268 and Kumarajiva
in 383 in seven volumes of twenty-seven chapters. Fa-Hsien, in quest of
another chapter, started for India in 475 A.D. When he reached Khotan, he
found the chapter on Devadatta, a treacherously acting cousin of the
Buddha. He eturned and requested Fa-I, an Indian monk, to translate it.
This translation was later added to the earlier text. Thus, there are
twenty-eight chapters in the present text. In 601A.D., Jnanagupta and
Dharmagupta also translated this sutra into Chinese.
** For more information,
please see Diệu
Pháp Liên Hoa and
Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh.
Kinh Duy Ma Cật:
Vimalakirtinirdesa-Sutra—Kinh Duy Ma Cật là một bộ kinh Đại thừa quan
trọng, đặc biệt cho Thiền phái và một số đệ tử trường phái Tịnh Độ. Nhân
vật chính trong kinh là Ngài Duy Ma Cật, một cư sĩ mà trí tuệ và biện tài
tương đương với rất nhiều Bồ Tát. Trong kinh nầy, Ngài đã giảng về Tánh
Không và Bất Nhị. Khi được Ngài Văn Thù hỏi về Pháp Môn Bất Nhị thì Ngài
giữ im lặng. Kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh chỗ bản chất thật của chư pháp vượt
ra ngoài khái niệm được ghi lại bằng lời. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập
dịch sang Hán tự—The Vimalakirti Sutra, a key Mahayana Sutra particularly
with Zen and with some Pure Land followers. The main protagonist is a
layman named Vimalakirti who is equal of many Bodhisattvas in wisdom and
eloquence. He explained the teaching of “Emptiness” in terms of
non-duality. When asked by Manjusri to define the non-dual truth,
Vimalakirti simply remained silent. The sutra emphasized on real practice
“The true nature of things is beyond the limiting concepts imposed by
words.” The sutra was translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bản Nguyện Công
Đức:
Bhaisaya-guru-vaiduryaprabhasapurvapranidhanavisesavistara—Kinh nhấn mạnh
về những công đức của Đức Dược Sư Như Lai và khuyên chúng sanh hãy tin
tưởng vị Phật nầy để được vãng sanh Thiên đường Đông Độ; tuy nhiên, kinh
không phủ nhận Tây phương Cực Lạc. Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sang
Hán tự—The Medicine Buddha Sutra—The sutra stresses on the merits and
virtues of Bhaisaya-Guru and encourages sentient beings to have faith in
this Buddha so that they ca be reborn in the Eastern Paradise; however,
the sutra never denies the Western Paradise. The Sutra was translated into
Chinese by Hsuan-Tsang—See Mười Hai Lời nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Phật.
Kinh Đại Bát Niết Bàn:
Mahaparinirvana-Sutra—Kinh thuyết về Phật nhập diệt và nhữõng giáo lý của
Ngài, còn gọi là Kinh Thiên Đường. Kinh cũng bàn về lý thuyết bản tánh
Phật vốn có ở mọi thực thể. Kinh được Ngài Đàm Vô Sám dịch sang Hán
tự—Maha Parinirvana Sutra—Great Nirvana—The sutra or sermon of the Great
Decease or passing into final Nirvana—A long sutra containing a
description of the Buddha’s passing and his teaching—The Paradise Sutra.
The sutra also deals with the doctrine of Buddha-nature, which is immanent
in all beings. The sutra was translated into Chinese by Dharmaksema.
Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni:
Mahakaruna Dharani Sutra—A Sutra of the Esoteric Buddhist tradition—The
Teaching of the powerful effect of the Avalokitesvara Maha-Bodhisattva
Great Compassion Mantra.
Kinh Đại Bửu Tích: Maha
Ratnakuta Sutra—Kinh được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hoa ngữ, là một
trong những kinh điển xưa nhất của Phật Giáo Đại Thừa. Trong Đại Bảo Tích,
tư tưởng Trung Đạo được triển khai. Kinh cũng nói về trí huệ siêu việt
(Bát Nhã Ba La Mật Đa trong trường Kinh A Di Đà)—Tạng kinh điển rất quan
trọng gồm 6000 trang trong chín quyển chứa đựng hầu hết những giáo điển
trọng đại của Đại Thừa nhằm đưa chúng sanh đến chỗ Giác Ngộ Tối Thượng của
Phật quả—The sutra was translated into Chinese by Bodhiruci, one of the
oldest sutras of Mahayan. In the Ratnakuta, the thought of the Middle Way
is developed. It also contains sutras on transcendental wisdom (Prajan
Paramita Sutra and Longer Amitabha Sutra)—A very important sutra (6000
pages in nine volumes) which contains almost all the most critical
teaching of the Mahayana Tradition (Great Vehicle) to carry sentient
beings to the Ultimate Enlightenment of Buddhahood.
Kinh Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật
Tam Ma Đà: Adhyardhasatika-Prajnaparamita-Sutra—Còn được gọi là
“Lý Thú Kinh” hoặc “Bát Nhã Lý Thú Kinh.” Đây là tinh yếu giáo lý của Mật
Tông, dạy cách tu hành thành Phật ngay trong đời nầy. Kinh được Ngài Bất
Không dịch sang Hán tự—Also called “The Interesting Sutra” or “The
Interesting Prajna Sutra.” It stressed on the essence of the Tantric
schools that taught how to practice and become a Buddha in this very life.
The sutra was translated into Chinese by Amoghavajra.
Kinh Đại Niết Bàn:
Maha-Parinirvana Sutra—Great Nirvana Sutra—See Kinh Đại Bát Niết Bàn.
Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm:
MahaVaipulya-Avatamsaka-Sutra—Buddhavatamsaka Sutra—Kinh điển Đại Thừa gồm
những giáo lý căn bản của trường phái Hoa Nghiêm, nhấn mạnh ý tưởng về “Sự
thâm nhập tự do lẫn nhau” của tất cả mọi sự vật. Kinh cũng dạy rằng nhơn
tâm là cả một vũ trụ và đồng nhất với Phật. Do đó, tâm, Phật, và chúng
sanh không sai khác. Trường phái Thiền đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh
nầy của học thuyết Đại thừa. Kinh được Ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch sang
Hán tự—The Sutra of the Garland of Buddhas. Mahayana sutra that
constitutes the basis of the teachings of the Avatamsaka school (Hua-Yen),
which emphasizes above all “mutually unobstructed interpenetration.” The
sutra also teaches that the human mind is the universe itself and is
identical with the Buddha. Indeed, the mind, Buddha and all sentient
beings are one and the same. This aspects of the Mahayana teaching was
especially stressed by the Chinese Zen. The sutra was translated into
Chinese by Buddhabhadra.
Kinh Đại Tập: Great Heap Sutra.
Kinh Đại Thừa: Mahayana
sutras—Trong số các bộ kinh của Đại Thừa, có chín kinh sách được xem là
quan trọng nhất. Các bộ kinh nầy được gọi là các kinh Phương Quảng
(Vaipulya sutras)—Among the Mahayanist sutras, nine texts are regarded as
the most important. These are called the Vaipulya sutras:
1) Bát
Thiên Tụng: Astasahasrika-prajna-paramita.
2) Diệu
Pháp Liên Hoa: Sadharma-pundarika.
3) Lăng
Già: Lankavatara.
4) Phổ
Diệu: Lalitavistara.
5) Kim
Quang Minh: Suvarna-prabhasa.
6) Hoa
Nghiêm: Gandavyuha.
7) Như
Lai Mật: Tathagata-guhyaka.
8) Tam
Muội Vương: Samadhi-raja.
9) Thập
Địa Tự Tại: Dasabhumisvara.
Kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến
Gia Trì Kinh:
Mahavairocanabhisambodhivikur-Vitadhisthanna-vaipulya-Sutrendra-Raja-Nama-Dharmaparyaya—Đây
là một trong những kinh điển căn bản của Phật giáo Mật tông, còn được gọi
là Kinh Đại Nhựt Như Lai. Kinh được các Ngài Thiện Vô Úy và Nhứt hạnh cùng
dịch sang Hán tự—This is one of the fundamental sutras in Tantric
Buddhism. It is also called “Mahavairocana Sutra.” The sutra was
translated into Chinese by Subhakarasimha and I-hsing.
Kinh Đại Vô Lượng Thọ: The
Great Infinite Life Sutra.
Kinh Đạo: Giáo thuyết của
kinh—The doctrine of the sutras.
Kinh Đạt Ma Đa La Thiền Kinh:
Yogacharabhumi-Sutra—Đây là kinh điển do Đạt Ma Đa La và Phật Đại Tiên
biên soạn để phổ biến về phương pháp thiền định cho các trường phái Tiểu
thừa vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Kinh được Ngài Phật Đà bạt Đà La dịch
sang Hán tự. Kinh chia làm năm phần—This sutra is composed by Dharmatrata
and Buddhasena in the 5th century AD on the methods of meditation for the
Hinayana. The sutra was translated into Chinese by Buddhabhadra. The
sutra was divided into five parts:
1) Mười
bảy vùng đất đánh dấu sự tiến bước trên đường đại giác với sự trợ giúp của
giáo lý Tiểu thừa Yogachara. Đây là phần quan trọng nhất: The seventeen
stages presenting the progression on the path to enlightenment with the
help of the Yogachara teaching, this is the most important part.
2) Những
lý giải về những vùng đất khác nhau ấy: Interpretations of these stages.
3) Giải
thích các kinh điển làm chỗ dựa cho giáo điều về các vùng đất Yogachara:
Explanation of these sutras from which the Yogachara doctrine of the
stages draws support.
4) Các
phạm trù chứa đựng trong các kinh điển ấy: Classifications contained in
these sutras.
5) Các
đối tượng của kinh điển Phật giáo (kinh, luật, luận): Topics from the
Buddhist canon (sutra, Vinaya-pitaka, Abhidharma).
Kinh Địa Tạng:
Ksitigarbhapranidhana-Sutra—Kinh Địa Tạng, nói về một vị Bồ Tát ở vào thời
kỳ vô Phật, tức là thời kỳ giữa lúc Phật Thích Ca nhập diệt và Phật Di Lặc
ra đời. Trong thời ký nầy không có một vị Phật nào cả; tuy nhiên, thế giới
Ta Bà vẫn có Bồ Tát Địa Tạng với bổn nguyện rộng lớn là cứu độ mọi chúng
sanh đau khổ của địa ngục. Kinh được Ngài Thật Xoa Nan Đà dịch sang Hán
tự—Earth Store Sutra mentioned about the Buddhaless period, the period
from the time the nirvana of the historical Buddha until the time the
coming Buddha Maitreya descends. In this period, ther is no Buddha;
however, the Saha world still has Earth-Store Bodhisatva who vows to save
all beings in hells. The sutra was translated into Chinese by Siksananda.
Kinh Điển: Tipitaka (skt)—Những
bài thuyết giảng của Đức Phật Thích Ca. Tam tạng Kinh Điển bao gồm Kinh,
Luật và Luận. Phật Giáo Nguyên Thủy thừa nhận kinh điển được ghi lại bằng
tiếng Ba Li (Nam Phạn). Phật giáo Đại Thừa thừa nhận kinh điển được ghi
lại bằng tiếng Bắc Phạn—Canon—Buddhist Sutras—The discourses of
Buddha—Canon—Three baskets in Pali recognized by Theravada school. Sutras
were written down in Sanskrit recognized by the Mahayana school, including
the sutras (kinh), Tantras (luật), and the Commentary (luận).
Kinh Điển Đại thừa: Mahayana
sutras.
Kinh Đường: Sutra Hall.
Kinh Gia: Người kết tập kinh
điển, như Ngài A Nan, theo truyền thống được ghi lại thì chính ông là
người đầu tiên đã kết tập kinh điển Phật giáo—One who collected or
collects the sutras, especially Ananda, who according to tradition
recorded the first Buddhist sutras.
Kinh Giả:
1) Bậc
uyên thâm và có khả năng thuyết giảng thông suốt kinh luật: One who
expounds the sutras and sastras.
2) Bậc
uyên thâm và giảng giải thông suốt kinh Pháp Hoa: One who keeps the
teaching of the Lotus Sutra.
Kinh Giải Thâm Mật:
Samdhinirmocana-Sutra—Đây là kinh điển căn bản của Pháp Tướng Tông, nội
dung nói về tư tưởng của trường phái Duy Thức. Mọi hiện tượng đều là trạng
thái của tâm thức. Các đối tượng chỉ tồn tại qua quá trình trí tuệ, chứ
không tồn tại như vốn có. Kinh được Ngài Huyền Trang dịch sanh Hán tự
—This is the basic sutra for the Dharmalaksana sect. The sutra based on
the central notion of the Yogachara, everything experienceable is mind
only. Things exist only as processes of knowing, not as objects. The
sutra was translated into Chinese by Hsuan-Tsang.
Kinh Giáo: The teaching of the
sutras—See Kinh Lượng Bộ.
Kinh Giới: Kinh và giới
luật,hay những giới luật được tìm thấy trong kinh điển. Những giới luật
được coi là căn bản bất hư—Sutras and commandments; the sutras and
morality or discipline. The commandments found in the sutras. The
commandments regarded as permanent and fundamental.
Kinh Hạ Sanh Di Lặc Thành Phật:
Maitreyavyakarana Sutra—Kinh ghi lại rằng sau thời Phật Thích ca nhập diệt
thì thế giới Ta Bà bước vào một thời kỳ không có Phật. Hiện thời Đức Di
Lặc đang thuyết pháp trên cung trời Đâu Suất, Ngài sẽ xuất hiện và thành
Phật trong hội Long Hoa. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán
tự—The sutra mentioned that after the historical Buddha sakyamuni’s
Nirvana, the whole Saha world entered a period without any Buddha (a
Buddhaless period). At this time, the Buddha-to-be is still preaching in
the Tushita. He will descend and become the Buddha in the “Long Hoa”
assembly. The sutra was translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Hãi: To be frightened.
Kinh Hành: Cankrama (skt).
1) Hành
thiền bằng cách đi tới đi lui để tránh buồn ngủ (có thể đi trong sân nhà,
sân chùa, hay quanh Phật điện): Meditative walking by walking up and down.
To walk about when meditating to prevent sleepiness.
2) Tập
dưỡng thân phòng bệnh trong hành lang tự viện: Exercise to keep in health;
the cankramana was a place for such exercise, i.e. a cloister, a corridor.
Kinh Hoa Nghiêm: Avatamsaka
(skt)—Flower Ornament Sutra—Nhan đề Phạn ngữ của Hoa Nghiêm là Avatamsaka,
nhưng Pháp Tạng trong bản chú giải kinh Hoa Nghiêm bộ 60 quyển nói nguyên
ngữ chính là Gandavyuha. Avatamsaka có nghĩa là “một tràng hoa” trong khi
nơi chữ Gandavyuha, thì ganda là “tạo hoa” hay một loại hoa thường và
“vyuha” là “phân phối trật tự” hay “trang sức.” Hoa Nghiêm có nghĩa là
trang hoàng bằng hoa. Hoa Nghiêm là một trong những bộ kinh thâm áo nhất
của Đại Thừa, ghi lại những bài thuyết pháp của Đức Phật sau khi Ngài đã
đạt giác ngộ viên mãn. Gandavyuha là tên phẩm kinh kể lại công trình cầu
đạo của Bồ Tát Thiện Tài Đồng Tử. Bồ Tát Văn Thù hướng dẫn Đồng Tử đi tham
vấn hết vị đạo sư nầy đến vị đạo sư khác, tất cả 53 vị, trụ khắp các tầng
cảnh giới, mang đủ lốt chúng sanh. Đây là lý thuyết căn bản của trường
phái Hoa Nghiêm. Một trong những kinh điển dài nhất của Phật giáo, cũng là
giáo điển cao nhất của đạo Phật, được Đức Phật thuyết giảng ngay sau khi
Ngài đại ngộ. Người ta tin rằng kinh nầy được giảng dạy cho chư Bồ tát và
những chúng hữu tình mà tâm linh đã phát triển cao. Kinh so sánh toàn vũ
trụ với sự chứng đắc của Phật Tỳ Lô Giá Na. Kinh cũng nhấn mạnh rằng mọi
sự vật và mọi hiện tượng đồng nhất thể với vũ trụ. Sau khi khảo sát về nội
dung của Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy kinh khởi đầu bằng những bản kinh
độc lập và về sau được tập hợp thành một dòng thơ, mỗi thể tài được trình
bày trong các kinh đó đều được xếp loại theo từng thể và được gọi chung là
Hoa Nghiêm—The Garland Sutra—The Sanskrit title is Avatamsaka, but it is
Gandavyuha according to Fa-Tsang’s commentary on the sixty-fascile Garland
Sutra. Avatamsaka means a ‘garland,’ while in Gandavyuha, ganda means ‘a
flower of ordinary kind,’ and vyuha ‘an orderly arrangement’ or ‘array.’
Gandavyuha means ‘flower-decoration.’ Avatamsaka is one of the profound
Mahayana sutras embodying the sermons given by the Buddha immediately
following his perfect enlightenment. The Gandavyuha is the Sanskrit title
for a text containing the account of Sudhana, the young man, who wishing
to find how to realize the ideal life of Bodhisattvahood, is directed by
Manjusri the Bodhisattva to visit spiritual leaders one after another in
various departments of life and in various forms of existence, altogether
numbering fifty-three. This is the basic text of the Avatamsaka school.
It is one of the longest and most profound sutras in the Buddhist Canon
and records the highest teaching of Buddha Sakyamuni, immediately after
enlightenment. It is traditionally believed that the sutra was taught to
the Bodhisattvas and other high spiritual beings while the Buddha was in
samadhi. The sutra has been described as the “epitome of Budhist thought,
Buddhist sentiment, and Buddhist experiences” and is quoted by all schools
of Mhayana Buddhism. The sutra compares the whole Universe to the
realization of Vairocana Buddha. Its basic teaching is that myriad things
and phenomena are the oneness of the Universe, and the whole Universe is
myriad things and phenomena. After examining the sutra, we find that there
were in the beginning many independent sutras which were later compiled
into one encyclopaedic collection, as the subject-matters treated in them
are all classified under one head, and they came to be known as
Avatamsaka.
Kinh Hoàng:
Terrified—Scared—Consternated.
Kinh Hoảng: See Kinh hoàng.
Kinh Hồn: Frightened out of
one’s wits.
Kinh Kệ: See Kinh điển.
Kinh Khê: Tức Trạm Nhiên Đại
Sư, vị tổ thứ chín của tông Thiên Thai ở Trung Hoa—Ching-Ch’i, thorn
stream, name of the ninth T’ien-T’ai patriarch Chan-Jan.
Kinh Khủng:
Dreadful—Fearful—Frightened.
Kinh Kim Cang: See Kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa:
Vajracchedika-Prajna-Paramita (skt)—Kinh Kim Cang, một trong những kinh
thâm áo nhứt của kinh điển Đại Thừa. Kinh nầy là một phần độc lập của Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Đa. Kinh Kim Cang giải thích hiện tượng không phải là
hiện thực, mà chỉ là những ảo giác hay phóng chiếu tinh thần riêng của
chúng ta (Bất cứ hiện tượng và sự vật nào tồn hữu trong thế gian nầy đều
không có thực thể, do đó không hề có cái gọi là “ngã”). Chính vì thế mà
người tu tập phải xem xét những hoạt động tinh thần của hiện tượng sao cho
tinh thần được trống rỗng, cởi bỏ và lắng đọng. Nó có tên Kim cương vì nhờ
nó mà chúng sanh có thể cắt bỏ mọi phiền não uế trược để đáo bỉ ngạn. Kinh
được kết thúc bằng những lời sau: “Sự giải bày thâm mật này sẽ gọi là Kinh
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa. Vì nó cứng và sắt bén như Kim Cương, cắt
đứt mọi tư niệm tùy tiện và dẫn đến bờ Giác bên kia.” Kinh đã được Ngài
Cưu Ma La Thập dịch ra Hán tự—Sutra of the Diamond-Cutter of Supreme
Wisdom, one of the most profound sutras in the Mahayana, an independent
part of The Vairacchedika Prajanparamita Sutra. The Diamond Sutra shows
that all phenomenal appearances are not ultimate reality but rather
illusions or projections of one’s mind (all mundane conditioned dharmas
are like dreams, illusions, shadow and bubbles). Every cultivator should
regard all phenomena and actions in this way, seeing them as empty, devoid
of self, and tranquil. The work is called Diamond Sutra because it is
sharp like a diamond that cuts away all necessary conceptualization and
brings one to the further shore of enlightenment. The perfection of wisdom
which cuts like a diamond. The sutra ends with the following statement:
“This profound explanation is called Vajracchedika-Prajna-Sutra, for the
diamond is the gem of supreme value, it can cut every other material
(thought) and lead to the other Shore.” The sutra was translated into
Chinese by Kumarajiva—A gatha of the Diamond Sutra states:
*Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ, diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
*All phenomena in this
world are
Like a dream, fantasy,
bubbles,
shadows;
They are also like dew,
thunder, and
lightening;
One must understand life
like that.
Kinh Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân
Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương Kinh:
Sarva-tathagatatattvasamgrahama-Hayanabhisamayamahakaparaya—Kinh điển căn
bản của Mật giáo, nói về các nghi thức đặc thù Mật giáo. Kinh được Ngài
Bất Không dịch sang Hán tự—This is the basic sutra of the Tantric
Buddhism, stressed on special tantric rituals. The sutra was translated by
amoghavajra.
Kinh Kim Quang Minh:
Suvarnaprabhasa-Sutra—Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương—Kinh Đại thừa
cho rằng đọc tụng sẽ được sự hộ trì của Tứ Thiên Vương. Chính vì thế mà
thời trước kinh đóng một vai trò quan trọng trong việc du nhập đạo Phật
vào Nhật bản. Kinh nhấn mạnh tới khía cạnh chánh trị của đạo Phật, và vì
lý do đó nó được nhiệt liệt hưởng ứng bởi giai cấp lãnh đạo Nhật. Ý tưởng
chánh của kinh là đức trí năng phân biệt thiện ác. Mọi người từ lãnh đạo
đến tiện dân đều phải tuân theo “ánh sáng bên trong” ấy. Kinh được Ngài
Nghĩa Tịnh dịch sang Hán tự—Suvarnaprabhasa-sutra (skt)—The Sutra of
Golden Light—Golden Light Supreme King Sutra, A Mahayana sutra mentioned
that those who recite it will receive the support and protect from the
four heavenly kings. That was why it played a major role in establishing
Buddhism in Japan. It stressed the political aspect of Buddhism and thus
was highly regarded by the Japanese ruling class. The main theme of the
sutra is the virtue of wisdom (inner light) which discriminates good and
evil. Each person from the ruler to those in the lowest state, must follow
this “inner light.” The sutra was translated into Chinese by I-Ching.
Kinh Lăng Già: Lankavatara
Sutra (skt)—Kinh Lăng Già là giáo thuyết triết học được Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thuyết trên núi Lăng Già ở Tích Lan. Có lẽ kinh nầy được soạn lại
vào thế kỷ thứ tư hay thứ năm sau Tây Lịch. Kinh nhấn mạnh về tám thức,
Như Lai Tạng và “tiệm ngộ,” qua những tiến bộ từ từ trong thiền định; điểm
chính trong kinh nầy coi kinh điển là sự chỉ bày như tay chỉ; tuy nhiên
đối tượng thật chỉ đạt được qua thiền định mà thôi. Kinh có bốn bản dịch
ra Hán tự, nay còn lưu lại ba bản. Bản dịch đầu tiên do Ngài Pháp Hộ Đàm
Ma La sát dịch giữa những năm 412 và 433, nay đã thất truyền; bản thứ nhì
do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào năm 443, gọi là Lăng Già A Bạt Đa La Bảo
Kinh, gồm 4 quyển, còn gọi là Tứ Quyển Lăng Già; bản thứ ba do Ngài Bồ Đề
Lưu Chi dịch sang Hán tự vào năm 513, gồm 10 quyển, gọi là Nhập Lăng Già
Kinh; bản thứ tư do Ngài Thực Xoa Nan Đà dịch vào những năm 700 đến 704
đời Đường, gọi là Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, gồm 7 quyển, nên còn gọi là
Thất Quyển Lăng Già. Đây là một trong những bộ kinh mà hai trường phái Du
Già và Thiền tông lấy làm giáo thuyết căn bản. Kỳ thật bộ kinh nầy được Tổ
Bồ Đề Đạt Ma chấp thuận như là bộ giáo điển được nhà Thiền thừa nhận.
Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng, “về sau
nầy tại miền nam Ấn Độ sẽ xuất hiện một vị đại sư đạo cao đức trọng tên là
Long Thọ. Vị nầy sẽ đạt đến sơ địa Bồ Tát và vãng sanh Cực Lạc.”—A
philosophical discourse attributed to Sakyamuni as delivered on the Lanka
mountain in Ceylon. It may have been composed in the fourth of fifth
century A.D. The sutra stresses on the eight consciousness, the
Tathagatha-garbha and gradual enlightenment through slow progress on the
path of meditative training; the major idea in this sutra is regarding
that sutras merely as indicators, i.e. pointing fingers; however, their
real object being only attained through personal meditation. There have
been four translations into Chinese, the first by Dharmaraksa between
412-433, which no longer exists; the second was by Gunabhada in 443, 4
books; the third by Bodhiruci in 513, 10 books; the fourth by Siksananda
in 700-704, 7 books. There are many treatises and commentaries on it, by
Fa-Hsien and others. This is one of the sutras upon which the Zen and
Yogacara schools are based. In fact, this was the sutra allowed by
Bodhidharma, and is the recognized text of the Ch’an School. In the
Lankavatara Sutra, Sakyamuni Buddha predicted, “In the future, in southern
India, there will be a great master of high repute and virtue named
Nagarjuna. He will attain the first Bodhisattva stage of Extreme Joy and
be reborn in the Land of Bliss.”
Kinh Lăng Nghiêm: Surangama
Sutra (skt)—Tên đầy đủ là Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, là bộ kinh
thâm sâu nguyên tác bằng tiếng Phạn, được viết vào thế kỷ thứ nhất sau Tây
Lịch. Kinh Lăng Nghiêm được ngài Paramartha (Chơn Đế) đem sang Trung quốc
và được thừa tướng Vương Doãn giúp dịch vào khoảng năm 717 sau Tây Lịch
(có người nói rằng vì vụ dịch kinh không xin phép nầy mà hoàng đế nhà
Đường nổi giận cách chức thừa tướng Vương Doãn và trục xuất ngài Chơn Đế
về Ấn Độ). Bộ kinh được phát triển và tôn trọng một một cách rộng rãi ở
các nước Phật Giáo Đại Thừa. Cùng với các vấn đề khác, kinh giúp Phật tử
tu tập Bồ Tát Đạo. Kinh còn nói đầy đủ về các bước kế tiếp nhau để đạt
được giác ngộ vô thượng. Kinh cũng nhấn mạnh đến định lực, nhờ vào đó mà
đạt được giác ngộ. Ngoài ra, kinh còn giải thích về những phương pháp
“Thiền Tánh Không” bằng những phương thức mà ai cũng có thể chứng ngộ
được—Also called the Sutra of the Heroic One. This profound writing,
originally in sanskrit, written in the first century A.D. The sutra was
brought to China by Paramartha and translated into Chinese with the
assistance of Wang Yung about 717 A.D. (some said that it was angered the
T’ang Emperor that this had been done without first securing the
permission of the government, so Wang-Yung was punished and Paramartha was
forced to return to India)—It is widely developed and venerated in all
the Mahayana Buddhist countries. Among other things, the sutra helps
Buddhist followers exercising Bodhisattva magga. It deals at length with
the successive steps for the attainment of supreme enlightenment. It also
emphasizes the power of samadhi, through which enlightenment can be
attained. In addition, the sutra also explains the various methods of
emptiness meditation through the practice of which everyone can realize
enlightenment.
Kinh Lễ Sáu Phương: Worship in
the Six Directions Sutra—See Kinh Lễ Sáu Phương in Appendix A (7).
Kinh Liên Đới: Book of
Relations.
Kinh Luân: To adminster—To
manage.
Kinh Luận: The sutras and
sastras—See Kinh Luật Luận.
Kinh Luận Nghị: Upadesa—Thuyết
về Lý Luận—Discussions of doctrine.
Kinh Luật Luận: Sutras, Vinaya,
Abhidharma sastras (skt)—Tam Tạng Kinh Điển Phật—The three divisions of
the Buddhist canon.
1) Kinh:
Sutra (skt)—See Kinh and Kinh Bổn.
2) Luật:
Vinaya (skt)—See Vinaya in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
3) Luận:
Sastra (skt)—See Abhidharma in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Luận
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá in Vietnamese-English Section.
Kinh Lượng Bộ: Sautrantika or
Santrantivadin (skt)—Thuyết Độ Bộ—Thuyết Chuyển Bộ—Giáo thuyết trong kinh
điển (một trong 18 bộ của Tiểu Thừa. Sau khi Đức Phật nhập diệt 400 năm,
nó được tách ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Trong số Tam Tạng chỉ có bộ
nầy dùng kinh làm chính lượng nên gọi là Kinh Lượng Bộ, người khai sáng ra
bộ nầy là Cưu Ma La Đà (bộ phái nầy chỉ lấy Kinh làm chính lượng, chỉ dùng
kinh điển để chứng minh). Bộ nầy cho rằng có sự chuyển thực thể từ kiếp
nầy sang kiếp khác. Theo các Phật tử của phái nầy thì trong ngũ uẩn của
con người, chỉ có một uẩn vi tế nhất chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác,
trái với Chánh Lượng Bộ cho rằng toàn bộ ‘pudgala’ đều được chuyển đi.
Phái nầy cũng tin rằng mỗi người đều có một khả năng tiềm ẩn trở thành
Phật, đây vốn là chủ thuyết của giáo phái Đại Thừa. Do những quan điểm đó
nên bộ phái nầy được xem là một cầu nối giữa Thanh Văn Thừa (thường được
gọi là Tiểu Thừa) và Đại Thừa—The teaching of the sutras, an important
Hinayana school, which based its doctrine on the sutras alone, the founder
of this division is Kumara-labha. This school believed in the
transmigration of a substance (sankranti) from one life to another.
According to its followers, of the five skandhas of an individual, there
is only one subtle skandha which transmigrates, as agianst the whole of
the pudgala of the Sammitiyas. It also believed that every man had in him
the potentiality of becoming a Buddha, a doctrine of the Mahayanists. On
account of such views, this school is considered to be a bridge between
the Sravakayana (often called the Hinayana) and the Mahayana.
Kinh Ma Đăng Già:
Matangi-Sutra—Kinh đặc trọng tâm vào câu chuyện về một phụ nữ tên Ma Đăng
Già, thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ, đã được Phật Thích Ca
thu nhận làm đệ tử. Trong nầy, Đức Phật cũng giảng tỉ mỉ rằng mọi giai cấp
đều bình đẳng. Kinh được Ngài Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm dịch sang Hán
tự—The sutra stressed on the story of a lady named Matangi, she belonged
to the lowest class in Indian society. In this sutra, the Buddha also
expounded clearly on the “Equality” of all classes. The sutra was
translated into Chinese by Chu-lu-Yen and Chih-Ch’ien.
Kinh Ma Ha Tăng Chỉ Luật:
Mahasanghika-Vinaya—Sau khi Phật nhập diệt 100 năm thì cộng đồng Phật giáo
thời bấy giờ chia làm hai phái, Thượng Tọa và Đại Chúng. Bên Đại Chúng Bộ
đã tự kết tập thành bộ luật Ma Ha Tăng Chỉ, nói về chi tiết những giới
luật của chư Tăng Ni. Kinh được Ngài Phật Đà Bạt Đà La và Pháp Hiển dịch
sang Hán tự—100 years after the Buddha’s nirvana, Buddhist community was
divided into two divisions: Theravada and Mahasanghika. The Theravada
wanted to keep the same rules since the Buddha’s time; however, the
Mahasanghika, the majority, believed proposed five points which laid
foundation for the Mahasanghika-Vinaya:
1) Một vị
A La Hán vẫn còn bị cám dỗ: An arhat is still subject to temptation.
2) Một
vị A La Hán vẫn còn dấu vết của sự ngu dốt: An arhat is still not yet free
from ignorance.
3) Một vị
A La Hán vẫn còn nghi ngờ về học thuyết: An arhat is still subject to
doubts concerning the teaching.
4) Một vị
A La Hán có thể tu hành giác ngộ nhờ sự giúp đở của tha lực: An arhat can
make progress on the path to enlightenment through the help of others.
5) Một vị
A La hán có cơ may được cứu rỗi bằng việc lập đi lập lại những âm thanh:
An arhat can advance on the path through utterance of certain sounds.
** This sutra was
translated into Chinese by
Buddhabhadra and
Fa-Hsien.
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo: Sutra on
Questions of King Milinda—See Milindapanha.
Kinh Ngạc:
Surprised—Amazed—Stupified—Astounded.
Kinh Nghi: To fear and to
suspect.
Kinh Nghiệm: Anubhava
(skt)—Experience—Sự hiểu biết xuất phát từ sự quan sát của cá nhân hay
thực nghiệm; ấn tượng của tâm chứ không từ ký ức—Experience means
knowledge derived from personal experiment; impression on the mind not
from memory.
Kinh Nghiệm Bây Giờ: Immediate
experience.
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội:
Samadhirajacandrapradipa-Sutra—Kinh ghi lại một cuộc đối thoại giữa một
người trẻ tuổi tên là Nguyệt Đăng và Đức Phật Thích Ca, trong đó Đức Phật
chỉ bày cách quán tánh “Bình Đẳng” cho tất cả mọi vật. Kinh cũng nhấn
mạnh về bản chất đồng nhất của mọi sự vật, mọi vật tồn hữu đều không có
thực thể, giống như giấc chiêm bao hoặc như ảo tưởng. Nhận chân được như
vậy là đạt tới cảnh giới giác ngộ vậy. Kinh được Ngài Na Liên Đề Da Xá
dịch sang Hán tự—The sutra mentioned a dialogue between a young person
named Candragupta and the Buddha Sakyamuni. In which the Buddha taught
about “Emptiness or Sunyata” in all things. The sutra also emphasized on
the essential identity of all things, everything exists without its own
reality, it is like a dream or illusion. To realize this means to reach
the realm of enlightenment. The sutra was translated into Chinese by
Narendrayasas.
Kinh Nguyệt Thượng Nữ Kinh:
Candrottaradarikapariprccha-Sutra—Kinh nói về nàng Nguyệt Thượng, con gái
của ông trưởng giả Duy Ma Cật (không phải là Cư Sĩ Duy Ma Cật). Nàng được
đức Phật thọ ký rằng trong một kiếp tương lai sẽ trở thành một vị Phật.
Kinh được Ngài Xà Na Quật Đa dịch sang Hán tự—The sutra mentioned about
Candrottara, a daughter of a rich old man named Vilamakirti (not the
layman Vilamakirti). She was predicted by the Buddha that she would become
a Buddha in a future life. The sutra was translated into Chinese by
Jnanaguptaad.
Kinh Nhơn Duyên:
Nidana—Narratives of the past which explain a person’s present state.
Kinh Nhơn Vương Bát Nhã Ba La Mật:
Karunikaraja-Prajnaparamita-Sutra—Kinh nhấn mạnh đến “Trí huệ Phật” trong
việc duy trì an ninh phúc lợi trong quốc gia. Kinh được Ngài Cưu Ma La
Thập dịch ra Hán tự—The sutra stressed on the “Buddha wisdom” for rulers
to maintain security and welfare for the country. The sutra was translated
into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Niên: Chronic—Lasting for
a long time.
Kinh Niết Bàn: Parinirvana
Sutra (skt)—Kinh Niết Bàn là bộ kinh cuối cùng mà Đức Phật thuyết trước
khi Ngài nhập diệt. Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết
Học Phật Giáo, giáo lý của Kinh Niết Bàn là một đề tài học hỏi hấp dẫn
trong thời kỳ nầy. Đạo Sanh hằng chú tâm vào việc nghiên cứu Kinh Pháp
Hoa, cũng là một lãnh tụ trong việc quảng diễn lý tưởng Niết Bàn. Nhân
đọc bản cựu dịch kinh Niết Bàn gồm sáu quyển, ông nêu lên chủ trương rằng
Nhất Xiển Đề (Icchantika—Hạng người được xem như không có Phật tính và
không thể thành tựu Phật quả) cũng có thể đạt đến Phật quả. Rồi ngay sau
đó một bản kinh bằng Phạn ngữ về Đại Bát Niết Bàn được truyền vào và phiên
dịch ra Hán văn. Lý thuyết cho rằng Nhất Xiển Đề cũng có thể đạt đến Phật
quả được tìm thấy trong bản kinh nầy. Sau đó ông cũng soạn một bản sớ giải
về Kinh Niết Bàn—Parinirvana Sutra was the last sutra which the Buddha
preached before he passed away. According to Prof. Junjiro Takakusu in The
Essentials of Buddhist Philosophy, the doctrine of the Nirvana text was
another fascinating subject of learning at the present time. Tao-Shêng,
already conspicuous in the study of the Lotus, was also a leader in the
exposition of the ideal of Nirvana. On reading the old Nirvana text, which
was in six Chinese volumes, he set forth the theory that the Icchantika (a
class of men who were bereft of Buddha-nature and destined to be unable to
evolve to the Buddha stage) could attain Buddhahood. Soon afterwards, a
Sanskrit text of the Mahaparinirvana Sutra was introduced and translated.
The theory that the Icchantika could attain Buddhahood was found in the
text. People marveled at his deep insight. Later he also compiled a
commentary on the Nirvana Sutra.
Kinh Phạm Võng: Brahmajala
(skt)—Brahma-Net Sutra, or Indra’s Net Sutra, Sutra of Net of Indra—Gọi
đầy đủ là Phạm Võng Tỳ Lô Giá Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giai Phẩm Đệ
Thập. Kinh được Ngài Cưu Ma La Thập, nước Thiên Trúc dịch sang Hán tự.
Kinh mang những bài học về đạo đức cho Bồ tát. Giới Luật trong Kinh Phạm
Võng được chia làm hai phần (10 giới luật Đại thừa quan trọng mà mỗi tín
đồ Phật giáo phải tuân theo hay tránh mắc phải)—The sutra was translated
into Chinese by Kumarajiva. It contains the Moral Code of the Bodhisattva.
There are two main divisions of moral code:
(A) Mười
trọng giới Đại Thừa cho Phật Tử, nhất là Phật tử xuất gia—10 rules of
Mahayana, which are obligatory for every follower, especially for monks
and nuns:
1) Không
sát sanh: Avoidance of killing.
2) Không
trộm cướp: Avoidance of stealing.
3) Không
xa hoa: Avoidance of unchase behavior.
4) Không
nói dối: Avoidance of lying.
5) Không
nghiệp ngập: Avoidance of use of intoxicants.
6) Không
nhàn đàm hý luận: Avoidance of gossiping.
7) Không
khoe khoang: Avoidance of boasting.
8) Không
ganh ghét: Avoidance of envy.
9) Không
đố kỵ và ác tâm: Avoidance of resentment and ill-will.
10) Không phỉ
báng Tam Bảo: Avoidance of slandering of the three precious ones.
** For more information,
please see Mười
Giới Trọng Của Chư
Bồ Tát trong Kinh
Phạm Võng, and Bốn
Mươi Tám Giới
Khinh.
(B) Bốn mươi
tám giới khinh—Forty-eight minor or lighter precepts—See Bốn Mươi Tám Giới
Khinh in Vietnamese-English Section, and Forty-Eight Minor Precepts.
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới: See
Kinh Phạm Võng.
Kinh Pháp: Giáo thuyết hay giáo
pháp được Phật nói trong kinh điển—The doctrine of the sutras as spoken by
the Buddha.
Kinh Pháp Bảo Đàn: Kinh được
Lục Tổ thuyết. Văn bản chủ yếu của Thiền Nam Tông, gồm tiểu sử, những lời
thuyết giảng và ngữ lục của Lục Tổ tại chùa Bảo Lâm được đệ tử của Ngài là
Pháp Hải ghi lại trong 10 chương---Sutra of Hui-Neng—Platform Sutra—Sixth
Patriarch Sutra—The Platform Sutra of the Sixth Patriarch’s Dharma
Treasure, the basic text of the Southern Zen School in China. The Sutra of
the Sixth Patriarch from the High Seat of the Dharma Treasure, basic Zen
writing in which Sixth Patriarch’s biography, discourses and sayings at
Pao-Lin monastery are recorded by his disciples Fa-Hai. It is divided into
ten chapters.
Kinh Pháp Cú: Dharmapada
(skt)—Dhammamapada (p)—Kinh Pháp Cú gồm những thí dụ về giáo lý căn bản
Phật giáo, rất phổ thông trong các xứ theo truyền thống Phật giáo nguyên
thủy. Tuy nhiên, bộ kinh nầy thuộc văn học thế gian và được nhiều người
biết đến ở các nước theo Phật giáo cũng như các nước không theo Phật giáo,
vì ngoài những giáo lý của đạo Phật, bộ kinh còn chứa đựng những ý tưởng
răn dạy chung mọi người. Kinh có 423 câu kệ, xếp theo chủ đề thành 26
chương. Kinh Pháp Cú bàn về các nguyên tắc chủ yếu của triết học Phật giáo
và cách sống của người Phật tử nên được các tu sĩ trẻ tại các nước vùng
Nam Á học thuộc lòng. Kinh Pháp Cú khuyên người ta những điều sau
đây—Dharmapada includes verses on the basics of the Buddhis teaching,
enjoying tremendous popularity in the countries of Theravada Buddhism.
However, Dharmapada belongs to world literature and it is equally popular
in Buddhist as well as non-Buddhist countries, as it contains ideas of
universal appeal besides being a sutra of Buddhist teachings. It consists
of 423 verses arranged according to topics into 26 chapters. The
Dharmapada contains the Buddha’s teachings or the essential principles of
Buddhist philosophy and the Buddhist way of life, so it is learned by
heart by young monks in Buddhist countries in South Asia. People are
advised by the Dharmapada the followings:
1) Đức
Phật nhấn mạnh trong Kinh Pháp Cú về việc: “Đừng làm điều ác, tu tập hạnh
lành, và giữ cho tâm ý thanh sạch.”—The Buddha emphasizes in the
Dharmapada: “Abstain from all evil, accumulate what is good, and purify
your mind.”
2) Phải
theo Trung Đạo và Bát Thánh Đạo của các vị Phật; phải dựa vào Tam Bảo: One
must follow the Middle Path, the Noble Eightfold Path of the Buddhas; one
must also take refuge in the Three Jewels (Trinity).
3) Kinh
khuyên người ta nên tránh việc cúng tế có giết mổ và tránh sự hành xác:
The Dharmapada advises people to avoid all kinds of sacrifice and the
ascetic practices of self-mortification.
4) Kinh
khuyên người ta nên nhấn mạnh vào việc tu tập giới, định, huệ: The
Dahrmapada advises people to concentrate in cultivating good conduct
(sila), concentration (samadhi) and insight (prajna).
5) Kinh
cũng khuyên mọi người đừng nên chỉ nhìn bề ngoài đẹp đẽ của vạn pháp mà
phải nhìn kỹ những khía cạnh không tốt đẹp của chúng: The Dharmapada
advises people not to look to the external attraction of things, but to
take a close look of their unpleasant aspects.
6) Kinh
luôn nhấn mạnh rằng tham, sân, si là những ngọn lửa nguy hiểm, nếu không
kềm chế được chắc hẳn sẽ không có được đời sống an lạc: The Dharmapada
always emphasizes that greed, ill-will and delusion are considered as
dangerous as fire, and unless they are held under control, it is not
possible to attain a happy life.
7) Kinh
đặt nặng nguyên tắc nỗ lực bản thân, chứ không có một ai có thể giúp mình
rũ bỏ điều bất tịnh. Ngay cả chư Phật và chư Bồ Tát cũng không giúp bạn
được. Các ngài chỉ giống như tấm bảng chỉ đường và hướng dẫn bạn mà thôi:
The Dharmapada emphasizes the principles that one makes of onself, and
that no one else can help one to rid oneself of impurity. Even the Buddhas
and Bodhisattvas are of little help because they only serve as masters to
guide you.
8) Kinh
khuyên người ta nên sống hòa bình, chứ đừng nên dùng bạo lực, vì chỉ có
tình thương mới thắng được hận thù, chứ hận thù không bao giờ thắng được
hận thù: The Dharmapada recommends people to live a life of peace and
non-violence, for enmity can never be overcome by enmity, only kindness
can overcome enmity.
9) Kinh
khuyên nên chinh phục sân hận bằng từ bi, lấy thiện thắng ác, lấy rộng
lượng thắng keo kiết, lấy chân thật thắng sự dối trá: The Dharmapada
advises people to conquer anger by cool-headedness, evil by good,
miserliness by generosity, and falsehood by truth.
10) Kinh
khuyên người ta không dùng lời cay nghiệt mà nói với nhau kẻo rồi chính
mình cũng sẽ được nghe những lời như thế: The Dharmapada also enjoins
people not to speak harshly to others, as they in their turn are likely to
do the same to us.
Kinh Pháp Hoa:
Suddharma-Pundarika Sutra—The Lotus Sutra—See Kinh Diệu Pháp Liên Hoa in
Vietnamese-English Section.
Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn:
Avalokitesvara Chapter in the Suddharma-Pundarika Sutra.
Kinh Phân Biệt: Book of
Treatise.
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni:
The Unisha Vijaja Dharani Sutra—Một trong những giáo điển Đại thừa dạy về
Phật trí thậm thâm. Kinh cũng nhấn mạnh rằng nếu tứ chúng đệ tử Phật (Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) thành tâm và tín tâm học đạo và tu
hành thì họ cũng có thể tận diệt ác nghiệp để đạt được trí huệ Phật ngay
trong đời kiếp nầy—One of many Mahayana dharma teachings that has profound
Buddhist wisdom that only Buddhas are capable of understanding and
grasping fully. The sutra also stresses that if the Buddha’s four kinds
of disciples (Bhikshu, Bhikshuni, Upasaka, Upasika) sincerely and
faithfully recite and cultivate the dharmas he taught, they can eliminate
evil karma and attain wisdom in this very life.
Kinh Phật Sở Hành Tán:
Buddhacarita—Kinh nói về tiểu sử của Đức Phật Thích Ca do Mã Minh
Asvaghosa soạn thảo vào thế kỷ thứ nhất, và Đàm Vô Sám dịch sang Hoa ngữ
vào thế kỷ thứ bảy—The Sutra of “Life of Buddha” composed by Asvaghosa in
the first century and translated into Chinese by T’an Wu Ch’an in the
seventh century.
Kinh Phí:
Expenditures—Expenses.
Kinh Phong: Convulsion.
Kinh Phổ Hiền Bồ Tát: The Sutra
of Meditation of the Bodhisattva Universal Virtue.
Kinh Phương Quảng: Kinh Phương
Đẳng—Vaipulya (for Mahayana)—An extensive exposition of principles of
truth.
Kinh Quán Phật Tam Muội: Sutra
on Buddha Samadhi Visualization.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ:
Amitayurdhyana Sutra—Kinh quán Phật A Di Đà, vị Phật trường thọ. Đây là
một trong ba bộ kinh chính của trường phái Tịnh Độ. Kinh diễn tả về cõi
nước Tịnh Độ của Phật A Di Đà và phương pháp tu hành cho phái Tịnh Độ qua
cuộc sống tịnh hạnh, trì trai giữ giới và niệm hồng danh Phật A Di Đà để
gột rữa những ác nghiệp và vãng sanh Tịnh Độ. Kinh cũng nói về thời giảng
của Phật đã chỉ dẫn Hoàng Hậu Vi Đề Hi cách vãng sanh Tịnh Độ—Meditation
Sutra, the sutra on the contemplation of the Buddha Amitabha, the buddha
of Boundless Life. This si one of the three sutras that form the doctrinal
basis of the Pure Land sect. It gives description of the Pure Land of the
Buddha Amitabha and the pactice of this school through leading a pure
life, observing moral rules and recitation of Amitabha’s name to wipe away
all unwholesome deeds and attain rebirth in the Pure Land. The sutra also
mentioned about the Buddha’s preaching to help Vaidehi to attain the Pure
Land.
Kinh Quỹ: Kinh điển và nghi quỹ
của Mật giáo—Sutras and regulations of the esoteric sects.
Kinh Sanh Kinh: Stories of the
previous incarnations of the Buddha and his disciples.
Kinh Sinh: Bản văn ghi lại của
các bộ kinh (không phải nguyên bản)—A copier of classical works.
Kinh Song Đối: Book of Pairs.
Kinh Sợ: To dread—To be
afraid—To be frightened—To be terrified.
Kinh Sư:
1) Thầy
dạy kinh điển: A teacher of the sutras or canon.
2) Kinh
đô: Capital.
Kinh Sương: Rương hay hòm đựng
kinh điển—A case for the scriptures, bookcase or box.
Kinh Tạng: The Sutra-pitaka—See
Kinh.
Kinh Tâm: To pay attention
to—To mind.
Kinh Tháp: Tháp chứa kinh điển
của Phật được coi như là xá lợi Phật. Tháp chứa những bài kệ tụng hay chú
Đà La Ni của Phật—A pagoda containing the scriptures as relics of the
Buddha, or having dharani or verses on or in the building material.
Kinh Thắng Man: Srimala Sutra
(skt)—Kinh dưới dạng những bài thuyết giảng của nàng Công chúa Thắng Man,
con vua Prasenajit của xứ Kosala. Kinh thuyết rõ về Phật tánh trong chúng
sanh mọi loài. Kinh được Ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch sang Hán tự---This
sutra takes the form of preaching by Lady Srimala, the daughter of King
Prasenajit of Kosala with the help of Sakyamuni’s power. It expounds the
One-vehicle doctrine and makes clear that the Buddha-nature is inherebt in
all sentient beings. The sutra was translated into Chinese by Gunabhadra.
Kinh Thí Dụ: Avadana—An
exposition of the dharma through allegories.
Kinh Thiên Động Địa: To
convulse the world.
Kinh Thọ Ký:
Vyakarana—Prophecies by the Buddha regarding his disciples’ attainment of
Buddhahood.
Kinh Thủ: See Kinh Sinh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Surangama
Sutra (skt)—Còn gọi là Kinh Thủ Lăng Già Ma,hay kinh của bậc “Kiện Tướng,”
kinh nhấn mạnh về “Tam Muội” qua đó đại giác được đạt tới và giải thích
những phương pháp khác nhau về Thiền “Tánh không” để đạt tới đại giác.
Kinh diễn tả cách lắng tâm bằng đi sâu vào Thiền Tam muội để gạt bỏ mọi
khái niệm, trực tiếp hay gián tiếp, từ đó chân tánh hiển bày. Kinh được
Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán tự—The Sutra of Heroic One—The sutra
emphasizes the power of samadhi, through which enlightenment can be
attained and explained the various methods of emptiness meditation through
the practice of which everyone can realize enlightenment. It describes the
tranquilizing of the mind by exclusion of concepts arising directly or
indirectly from sensory experiences, the nature of truth realized in
samadhi or deepest contemplation, and the transcendental virtues and
powers resulting. The sutra was translated into Chinese by Kumarajiva.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội:
Surangamasamadhi-Sutra—See Kinh Thủ Lăng nghiêm.
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật:
Astasahasrika-Prajnaparamita-Sutra—Kinh gồm 10 quyển trong số 37 quyển của
bộ Bát Nhã Ba La Mật. Kinh nói về “Tánh Không” của chư pháp—The sutra
consists of 10 in the 37 volumes in the Great Prajnaparamita sutra. The
sutra explains about the “Sunyata” of all things.
Kinh Tởm: To have horror.
Kinh Tô Tất Địa Yết La:
Susiddhi-karamaha-tantra-sadhano-Payika-Pataka—Còn gọi là Kinh Tô Tất Địa,
diễn tả những nghi thức khác nhau trong Phật giáo Mật tông. Kinh được Ngài
Thâu Ba Ca La dịch sang Hán tự—Also called “Susiddhikara-sutra,” described
various Tantric rituals. The sutra was translated into Chinese by
Subhakarasimha.
Kinh Tông: Tông phái dựa vào
kinh điển làm giáo thuyết cho tông (chuyên thụ trì và tụng đọc kinh điển),
như tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm, đối lại với những tông phái lấy “Luận
Tạng” làm giáo điển—The sutra school, any school which bases its doctrines
on the sutras, e.g. The T’ien-T’ai, or Hua-Yen, in contrast to schools
based on the sastras, or philosophical discourses.
Kinh Trung A Hàm: Madhyamagama
(skt) Majjhima Nikaya (p)—Kinh nói về những lời dạy và đức hạnh của Đức
Phật Thích Ca cũng như các đệ tử của Ngài, về Giáo lý căn bản của Phật
giáo nguyên thủy, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Kinh nầy được Ngài Xá Lợi
Phất trùng tụng trong lần Đại Hội Kết Tập Kinh Điển đầu tiên ngay sau khi
Phật nhập diệt—The Middle Length Discourses in the Pali Canon. The sutra
preached by the Buddha about his life as well as those of his disciples’,
fundamental doctrine of the Hinayana Buddhism, the Four Noble Truths and
the Dependent Origination. This collection was recited by Sariputra at the
First Buddhist Council.
Kinh Trường A Hàm: Dighagama
(skt) Digha-Nikaya (p)—Long-work Sutras Kinh Trường A Hàm, một trong những
kinh điển Phật giáo xưa nhất do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng về
những công đức của Phật, sự tu hành của Phật giáo, và những vấn đề giáo lý
quan trọng đặc biệt đối với Phật tử tại gia trong bổn phận làm cha mẹ, làm
con cái, làm thầy, làm trò, vân vân. Kinh được hai vị Phật Đà Da Xá và
Trúc Niệm Phật dịch sang Hoa ngữ—Long Collection, one of the oldest
Buddhist sutras expounded by the Buddha Sakyamuni, explained the Buddha’s
merits and virtues and the life of the historical Buddha, Buddhist
philosophical theories, and theories particularly important for laypeople
as parents, children, teachers, students, and so on.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương: Kinh
Bốn Mươi Hai Chương. Kinh đầu tiên được dịch sang tiếng trung Hoa, kinh
chứa đựng những lý thuyết chính yếu về Tiểu thừa như các khái niệm về ham
muốn hay vô thường. Kinh được các Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan
(những sư Ấn Độ đầu tiên đến Trung Quốc) dịch sang Hán tự. Tuy nhiên, mãi
đến đời Tấn mới được in ấn và lưu hành—Dvachatvarimshat-khanda-Sutra—Sutra
in Forty-Two Sections. The first Buddhist written work in Chinese
language, the essential teachings of the Lesser Vehicle, such as
impermanence and desire or craving. The sutra was translated into Chinese
by (attributed to) Kasyapamatanga and Gobharana (Chu-Fa-Lan), the first
Indian monks to arrive officially in China. It was, however, probably
first produced in China in the Chin dynasty—See Hai Mươi Điều Khó.
Kinh Từ Thiện: Metta-Sutta
(p)—Maitri-Sutra (skt)—Kinh nói về lòng từ thiện soạn bởi trường phái Phật
giáo Tiểu thừa. Đây là một trong những bản văn được biết rộng rãi nhất của
Theravada và được tứ chúng của trường phái nầy trì tụng mỗi ngày—Sutra on
Kindness composed by the Hinayana school. It is one of the most popular
texts of the Theravada and recited daily by monks, nuns and lay people in
this school. The texts says:
“Đây là những gì nên làm của những kẻ khôn ngoan,
đi tìm giải thoát, và biết thực nghĩa của nơi yên tĩnh. Người đó phải kiên
quyết, ngay thẳng và thật thà; trong khi vẫn dịu dàng, chăm chú và trừ bỏ
mọi kiêu hãnh; người đó luôn sống đạm bạc và dễ bằng lòng, khiêm nhường,
chăm chỉ vừa phải, nhưng thông minh và luôn làm chủ được các giác quan—Còn
về chuyện gia đình thì không có tham vọng lớn, dễ hài lòng, không mãi miết
trong những mục đích xấu. Để cho tha nhân, các vị hiền triết phải tự trách
mình. Phải cầu cho mọi người được yên bình hạnh phúc, cầu cho tất cả được
hoàn toàn hạnh phúc. Cầu cho mọi sanh linh, đang vận động hay đang nằm im,
đang bò hay đang bay, nhỏ hay vừa, khỏe hay ốm, hữu hình hay vô hình, gần
hay xa, Đã thọ sanh hay vẫn còn nằm trong thai, tất cả đều được hạnh phúc!
Cầu cho người đó đừng bao giờ trêu chọc người khác. Hãy đừng bao giờ ai
lừa gạt hay khinh miệt ai! Hãy đừng bao giờ bị thúc đẩy bởi oán giận hay
hận thù để rồi tự mình gây ra lầm lỗi! Giống như một người mẹ che chở cho
đứa con, đứa con độc nhất bằng cả cuộc đời. Đối với tất cả phải giữ gìn
cho lòng mình tránh mọi ngăn cách. Bày tỏ lòng từ thiện với tất cả mọi
người, giữ cho tinh thần mình không thành kiến, không hẹp hòi với trên,
dưới và với xung quanh. Không một chút thù hằn và đối địch. Đứng, ngồi,
nằm hay đi. Dù đấu tranh chống sự yếu mềm như thế nào, cũng cố giữ lấy
tinh thần. Thái độ nầy được coi là lối sống Thánh Thần trên mặt đất. Tránh
sa vào tà thuyết, cố giữ lấy giới luật và thiền định cho trí tuệ triển
khai, chiến thắng những cơn khao khát đòi hỏi khoái lạc. Thì không còn tái
sanh lần nào nữa trong bụng mẹ—This is what should be done by a man who is
wise, who seeks the good, and know the meaning of the place of peace. Let
him be strenuous or determined, upright, and truly straight. Let him not
be submerged by the things of the world, free of cares (đạm bạc) and
easily contented and joyous—Let his sense be controlled. Let him not
desire great possessions even for his family. Let him do nothing that is
mean or that the wise would reprove. May all beings be happy and at their
ease ! May they be joyous and live in safety! All beings whether weak or
strong, in high, middle or low realms of existence, small or great,
visible or invisible, near or far away, born or to be born—May all beings
be hapy at their ease! Let none deceives another, or despites any beings
in any states! Let none be anger or ill-will wish harm to another! Even
as a mother watches over and protects her child, her only child , so with
a boundless mind should one cherish all living beings, radiating
friendliness over the entire world, above, below, and all around without
limit. So let him cultivate a boundless good will towards the entire
world, uncramped, free from ill-will or enmity. Standing or walking,
sitting or lying down, during all his walking hours, let him establish
this mindfulness of goodwill, which men call the highest state. Abandoning
vain discussions, having a clear vision, free from sense appetites, he who
is made perfect will never again know rebirth.
Kinh Tượng Tích Dụ:
Mahahatthipadopama Sutta (p).
Kinh Ưu Bà Tắc Giới:
Upasakasila-Sutra—Kinh gồm những điều dạy cho Phật tử tại gia tên Thiện
Sanh, nói về những giới luật nên giữ gìn cho một nam Phật tử tại gia, cũng
còn được gọi là “Thiện Sanh Kinh.” Kinh được Ngài Đàm Vô Sám dịch ra Hán
tự—The sutra contains Buddha’s teachings for Sujata, mentioned precepts
observed by a layman. The sutra is also called “Sujuta-Sutra” and was
translated into Chinese by T’an-Wu-Ch’an.
Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh:
Manjusripariprccha—Kinh ghi lại những giới luật tu hành cho một vị Bồ Tát.
Cũng được gọi là “Văn Thù Vấn Kinh” vì Bồ Tát Văn Thù, một bậc Bồ Tát trí
tuệ, đã hỏi Phật về những giới luật cho một Bồ Tát tu hành thành Phật.
Kinh được Ngài Tăng Già Bà La dịch sang Hán tự—The sutra mentioned all
moral rules for a Bodhisattva’s daily practice. It is also called
“Manjusri’s Questions Sutra” because Bodhisattva Manjusri, a Bodhisattva
of wisdom, asked the Buddha about moral rules for a bodhisattva to
practice to attain Buddhahood. The sutra was translated into Chinese by
Sanghabhara.
Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên:
Abdhuta-dharma—Accounts on miracles performed by the Buddha.
Kinh Viên Giác: Kinh nói về
“Đại Giác Toàn Hảo. ” Kinh được một nhà sư Tây Tạng tên Buddhatrata dịch
sang Hoa ngữ năm 693. Mười hai vị Bồ Tát trong đó có Văn Thù và Phổ Hiền
đã nhận được từ đó những chỉ dẫn về nội dung đại giác toàn hảo. Kinh Viên
Giác có ảnh hưởng quyết định tới Thiền Tông Trung Quốc và Nhật Bản—Sutra
Of Perfect Enlightenment, a sutra that indicates the “perfect
enlightenment.” It was translated into Chinese in 693 by a Tibetan monk
named Buddhatrata. In it twelve bodhisattvas, among them Manjusri and
Samantabhadra, are instructed in the nature of perfect enlightenment. This
sutra had great influence on both Chinese and Japanese Zen.
Kinh Vô Lượng Nghĩa: Sutra of
Infinite Meaning—Kinh được soạn như là phần “Dẫn Nhập Diệu Pháp Liên Hoa.”
Kinh nói về giáo lý và ý nghĩa vô lượng của Phật pháp dùng để cắt đứt vô
biên phiền não. Kinh được Ngài Đàm Ma Già Đa Gia Xá dịch sang Hán tự—The
sutra was composed as an “Introduction to the Wonder Lotua Sutra.” The
sutra stressed that only the infinite doctrine and meaning of the Buddha’s
teachings can be used to cut off countless afflictions. The sutra was
translated into Chinese by Dharmagatayasas.
Kinh Vô Lượng Quang: Sutra of
Infinite Light.
Kinh Vô Lượng Thọ:
Sukhavativyuha Sutra—Một trong ba bộ kinh chủ yếu của trường phái Tịnh Độ.
Có hai bản văn, một ngắn một dài. Kinh bắt đầu bằng cuộc đối thoại giữa
Phật A Di Đà và Phật Thích Ca. Đức Thích Ca ngợi khen Đức Di Đà với cõi
Tịnh Độ trang nghiêm và Đức A Di Đà tán thán Đức Thích ca thành tựu công
đức khó thành tựu nơi cõi Ta Bà ngũ trược ác thế. Kinh được Ngài Khương
Tăng Khải dịch sang Hán tự—Sutra of Infinite Life, one of the three basic
sutras of the Pure Land school. It exists in two forms: The Longer and the
Short Form of Amitabha Sutras. It begins with a dialogue between Sakyamuni
Buddha and Amitabha Buddha. Sakyamuni praises Amitabha with his Adorned
Pure Land, while Amitabha praises Sakyamuni Buddha that he had achieved
unbelievable merits and virtues in the Saha world with the five
defilements and all evil worlds. The sutra was translated into Chinese by
Samghavarman.
Kinh Vô Vấn Tự Thuyết:
Udana—Kinh A Di Đà—An Exposition of Dharma by the Buddha without awaiting
questions or requests from his disciples—Amitabha Sutra.
Kinh Vu Lan Bồn: The Ullambana
Sutra—Kinh được Ngài Trúc Pháp Hộ dịch sang Hán tự—The sutra was
translated into Chinese by Dharmaraksa—See Vu Lan Bồn in
Vietnamese-English Section and Ullambana in Pali/Sanskrit Section—See Kinh
Vu Lan Bồn in Appendix A (10).
Kinh Y: Áo có ghi chép kinh
điển trên đó, dùng để mặc cho người chết—The garment with sutras in which
the dead were dressed, so called because it had quotations from the sutras
written on it.
Kính:
1) Đường
kính: A diameter.
2) Kiếng:
Adarsas (skt)—Tấm kiếng—A mirror.
3) Kính
trọng: To respect—Respectable—Respectful—Reverence.
Kính Ái:
1) Kính
trọng và thương yêu: To respect and to love—Reverence and love—Reverent
love.
2) Một
trong tứ đàn pháp của tông Chân Ngôn: One of the four kinds of
altar-worship of the Shingon sect.
Kính Biếu: To offer
respectfully
Kính Cẩn: Respectfully
Kính Chuộng: To revere—To
venerate—To reverence.
Kính Cốc: Gương soi bóng mình
hay hang vọng tiếng động, ví với sự cảm ứng của Đức Phật và chúng
sanh—Mirror and gully, reflection and echo, i.e. the response of the
Buddhas to prayers.
Kính Dâng: To present
respectfully—To offer respectfully
Kính Điền: Ngôi ruộng cung
kính, nghĩa là lễ kỉnh và hộ trì Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng thì sẽ được
tăng thêm phước đức—The field of reverence, i.e. worship and support the
Buddha, Dharma, and Sangha as a means to obtain blessing.
Kính Lão: To respect the aged.
Kính Lễ: Vandani (skt)—Cung
kính lễ bái Phật Pháp Tăng (theo Nghĩa Lâm Chương, cử chỉ chí thành cung
kính gọi là kính, nghi thức theo đúng khuôn phép gọi là lễ. Kính lễ còn
khơi dậy lòng thanh tịnh tạo tách nghiệp thù thắng nữa)—Paying reverence,
worship.
Kính Mến: To esteem—To hold
someone in high esteem.
Kính Mộ: To revere and to
admire
Kính Mời: To invite
respectfully
Kính Nể: Reverence—To have
regard for—To have consideration for.
Kính Phục: To admire—To render
homage to someone.
Kính Sơn: Một ngôi tự viện cổ
tại Linh An Hiển, thuộc tỉnh Triết Giang—An ancient monastery at
Ling-An-Hsien, Che-Kiang.
Kính Tạ: To thanks
respectfully.
Kính Tặng: To offer
respecfully.
Kính Thân: To respect one’s
parents.
Kính Thỉnh: To invite
respectfully.
Kính Thưa: To report
respectfully.
Kính Trọng: Kính nể—To
respect—To venerate—To have regard for—To have consideration.
Kính Tượng: Hìng ảnh trong
gương, ví với cái vô thường thấy đó rồi mất đó—The image in a mirror, i.e.
the transient.
Kính Vâng: To obey
respectfully.
Kính Vì: To show regard to.
Kính Viếng: To pay one’s
respect to the dead person.
Kính Ý: Respecful regards.
Kính Yêu: To respect and to
love.
Kình: Makara (skt)—Cá kình hay
cá voi—A whale—A sea-monster.
Kình Âm: Âm thanh vang vội lại
giống tiếng chuông ngân—A reverberating sound, like that of a bell, or
gong.
Kình Càng: Bulky.
Kình Chống: To compete—To
contend
Kình Ngư: See Kình.
Kỉnh Huyền Đại Dương Thiền Sư:
Zen master Jing-Xuan-T’a-Yang—Thiền Sư Kỉnh Huyền sanh năm 943, quê tại
tỉnh Hồ Bắc, đệ tử của Thiền Sư Lương Sơn Duyên Quán—Zen master Jing-Xuan
was born in 943 in Hubei Province. He was a disciple of Zen master
Liang-Shan-Yuan-Kuan.
·
Lần đầu tiên gặp gỡ Lương Sơn, sư hỏi: “Thế nào là đạo tràng
vô tướng?” Lương Sơn chỉ Bồ Tát Quan Âm, nói: “Cái nầy là do Ngô Xứ Sĩ
vẽ.” Sư suy nghĩ để tiến ngữ. Lương Sơn nhanh nhẩu nói: “Cái nầy có tướng,
cái kia không tướng.” Sư nhơn đó tỉnh ngộ, liền lễ bái. Lương Sơn hỏi:
“Sao không nói lấy một câu?” Sư thưa: “Nói thì chẳng từ, sợ e trên giấy
mực.” Lương Sơn cười, bảo: “Lời nầy vẫn còn ghi trên bia.” Sư dâng kệ
rằng:
“Ngã
tích sơ cơ học đạo mê
Vạn thủy
thiên sơn mích kiến tri
Minh
kiêm biện cổ chung nan hội
Trực
thuyết vô tâm chuyển cánh nghi.
Mong sư
điểm xuất Tần thời cảnh
Chiếu
kiến phụ mẫu vị sanh thì
Như kim
giác liễu hà sở đắc
Dạ phóng
ô kê đới tuyết phi
(Con xưa
học đạo cứ sai lầm
Muôn núi
ngàn sông kiếm thấy nghe
Luận cổ
bàn kim càng khó hội
Nói
thẳng vô tâm lại sanh nghi.
Nhờ thầy
chỉ rõ thời Tần kính
Soi thấy
cha mẹ lúc chưa sanh
Hiện nay
giác ngộ đâu còn đắc
Đêm thả
gà đen trong tuyết bay).
Lương
Sơn bảo: “Có thể làm hưng thịnh tông Tào Động.”
Upon
T’a-Yang’s first meeting with Liang-Shan, T’a-Yang asked: “What is the
formless place of realization?” Liang-Shan pointed to a painting of
Kuan-Yin and said: “This was painted by Wu-Chu.” T’a-Yang was about to
speak when Liang-Shan cut him off, saying: “Does this have form? Where is
the form?” At these words, T’a-Yang awakened. He then bowed. Liang-Shan
said: “Why don’t you say something?” T’a-Yang said: “It’s true I don’t
speak, and I fear putting it to brush and paper."”Liang-Shan laughed and
said: “Engrave the words on a stone memorial.” T’a-Yang then offered the
following verse:
“Formerly my means of studying the Way was confused,
Seeking
understanding among myriad streams and countless mountains.
But
immediate clarity is not found by sorting throught the past.
Directly
speaking “no mind” engendered more delusion.
Then, a
teacher revealed my situation upon leaving Qin,
Illuminating the time before my parents’ birth.
And now,
everything realized, what has been attained?
The
night frees crow and cock to fly with the snow.”
Liang-Shan said: “Here the T’ong-Shan line is entrusted.” In time,
Jing-Xuan’s reputation spread widely.
·
Vị Tăng hỏi: “Thế nào là câu Đại Dương thấu pháp thân?” Sư
đáp: “Đáy biển đại dương bụi hồng dấy, trên đỉnh Tu Di nước chảy ngang.”—A
monk asked T’a-Yang: “What is a phrase that penetrates the dharmakaya?”
T’a-Yang said: “Red dust rises from the bottom of the sea. Rivers flow
sideways at Mountain Sumeru’s summit.”
·
Một vị Tăng hỏi Kỉnh Huyền: “Thế nào là cảnh Đại Dương?” Sư
đáp: “Hạc côi vượn lão kêu hang dội, tùng gầy trúc lạnh tỏa khói xanh.” Vị
sư hỏi: “Thế nào là người trong cảnh?” Kỉnh Huyền hỏi: “Làm gì? Làm gì?”
Vị Tăng lại hỏi: Thế nào là gia phong Đại Dương?” Kỉnh Huyền đáp: “Bình
đầy nghiêng chẳng đổ, khắp nơi chẳng người đói.”—A monk asked T’a-Yang:
“What is T’a-Yang’s state of being?” T’a-Yang said: “A gaunt crane and an
old ape call across the valley in harmony. A slender pine and the cold
bamboo are enveloped in blue mist.” The monk said: “What about the person
in that state?” T’a-Yang said: “What are you doing? What are you doing?”
The monk asked: “What is the master’s family style?” T’a-Yang said: “A
full pitcher that can’t be emptied. Across the great earth, no one
hungry.”
Kịp: To catch someone up.
Kịp Thời: In time.
Ký:
1) Ghi
lại, nhớ lại—To record—To remember—To transfer—To go or put under cover.
2) Gởi :
To deliver—To convey—To transfer.
Ký Âm: Memory.
Ký Biệt: Phật ghi nhận việc các
đệ tử của Ngài thành Phật, từ Phật kiếp, Phật độ, đến Phật hiệu (Phật ghi
nhận trong các kinh điển thì gọi là “Ký Biệt,” còn đích thân Phật trao sự
ghi nhận đó cho học trò thì gọi là “Thọ Ký.”)—To record and differentiate,
the Buddha fortelling of the future of his disciples to Buddhahood, and to
their respective Buddha-kalpas, Buddha-realms, titles, etc.
Ký Biệt Kinh: Vyakarana
(skt)—Một trong 12 bộ kinh, tiếng Phạn gọi là Hòa Già La Na, dịch là Thọ
Ký hay Ký Biệt Kinh—One of the twelve divisions of the canon, the sutra
which contains stories of the Buddha’s foretelling or predictions of the
future of his disciples to Buddhahood.
Ký Giả: Journalist.
Ký Khố: Gửi vào kho—Theo truyền
thống địa phương, việc ký thác (đốt giấy tiền) chẳng những tốt cho người
quá vãng, mà cũng tốt cho người sống buôn bán trong tiệm—To convey to the
treasury, i.e. as paper money or good are transferable to credit in the
next world not only of the dead, but also by the living in store for
themselves, according to local tradition.
Ký Luận: Vyakarana (skt)—Bộ
luận về ngữ pháp tiếng Phạn—A treatise on Sanskrit grammar.
Ký Ngưu Lai: Cỡi trâu tìm trâu
hay lấy Phật tìm Phật—To ride an ox, to seek an ox, means to use the
Buddha to find the Buddha.
Ký Tâm: See Ký Âm.
Ký Thất: Còn gọi là Thư
Ký—Secretary’s office, secretary, writer.
Ký Ức: Memory—See Niệm.
Kỳ:
1) Cầu
phước: Yacna (skt)—Cầu phước không được nói đến trong giáo lý Tiểu Thừa,
mà chỉ được biết đến qua giáo lý Đại Thừa, đặc biệt là trong Mật giáo—To
pray—Prayer is spoken of as absent from Hinayan, and only known in
Mahayana, especially in the esoteric sect.
2) Kỳ
diệu: Kỳ lạ—Ascarya or Adbhuta (skt)ï—Wonderful—Rare—Odd—Extraordinary.
3) Kỳ
vọng: To expect—To look for—To hope.
4) Ông
Thổ Thần: The Earth-Spirit.
5) Thời
kỳ: A set time—A limit of time.
6) Tuổi
60: 60 years of age.
Kỳ An: To pray for peace.
Kỳ Bà: Jiva or Jivaka (skt).
1) Còn
gọi là Kỳ Vực, hay Thời Phược Ca. Kỳ Bà là con trai của vua Bimbisara và
thứ thiếp Amrapali. Người ta nói sau khi sanh ra ông ta đã chụp lấy kim
chích và túi thuốc. Về sau nầy ông trở nên một lương y nổi tiếng—Son of
king Bimbisara by the concubine Amrapali. On his birth he is said to have
seized the acupuncture needle and bag. He became famed for his medical
skill.
2) Sống
vững vàng: A stable life, or long life.
Kỳ Bà Điểu: Kinh Niết Bàn gọi
là Mệnh Mệnh Điểu. Kinh A Di Đà gọi là Cọng Mệnh Điểu. Tiếng Phạn là Kỳ Bà
Kỳ Bà, là một loài chim một thân hai đầu ở núi Tuyết Ấn Độ. Có một huyền
thoại về loài chim nầy như sau: Loại chim một thân hai đầu nầy một con gọi
là Ca Lâu La, con kia là Ưu Ba Ca Lâu La. Một con thì ăn hoa thơm khi con
kia đang ngủ; khi thức giấc, biết mình không được chia xẻ hoa thơm, con
kia tức giận bèn ăn một loài hoa độc, kết quả là con chim bị chết—A bird
of parttridge family; there is a fable about such a bird having two heads;
one called “garuda” and the other “upagaruda.” One ate a delicious flower
while the other was asleep; when the other awoke; it was so annoyed at not
sharing it that it ate a poisonous flower and the bird died; thus there is
a Jekyll and Hyde in everyone.
Kỳ Bà Kỳ Bà: Jivajivaka
(skt)—See Kỳ Bà Điểu.
Kỳ Bà Thiên: Jiva (skt)—Dịch
nghĩa là Mệnh Thiên, hay là vị trời trường mệnh—The deva of long life.
Kỳ Dạ: Geya (skt)—See Thập Nhị
Đại Thừa Kinh in Vietnamese-English Section.
Kỳ Dị:
Extraordinary—Rare—Uncommon.
Kỳ Diệu: Beautiful or wonderful
beyond compare.
Kỳ Duyên: Strange coincidence.
Kỳ Đa Mật: Gitamitra (skt)—Ca
Hữu—Kỳ Mật Đa—Vị Tăng nổi tiếng người Tây Vực, hay bắc Ấn Độ, người đã
dịch 23 quyển kinh sang Hoa ngữ vào đời Tấn (có lẽ là Kinh Bồ Tát Thập
Trụ)—Also called “Friend of Song,” a noted monk from western China, or
north India, who in the fourth century, translated 23 works into Chinese
(perhaps The sutra of Bodhisattva’s Ten Grounds).
Kỳ Đà: Jeta (skt)—See Thệ Đa.
Kỳ Đà Lâm: Jetavana (skt)—See
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Kỳ Đà Viên: Jetavana (skt)—See
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Kỳ Đảo: To pray.
Kỳ Đặc:
Wonderful—Rare—Special—See Tam Kỳ Đặc.
Kỳ Hạn: Term—Period.
Kỳ Khôi:
Extraordinary—Unusual—Strange.
Kỳ Lạ: Strange—Extraordinary.
Kỳ Lão: Old people.
Kỳ Lân: Male and female
unicorns (the ch’I-lin).
Kỳ Na: Jina (skt)—Dịch là
Thắng, chỉ ngôi Phật tôn quý, còn có nghĩa là giáo phái Kỳ Na—Victor, he
who overcome, a title of every Buddha; name of various persons; the Jaina
religion; the Jains.
Kỳ Na Giáo: See Kỳ Na.
Kỳ Nho: Old learned man.
Kỳ Niệm: See Kỳ Thọ.
Kỳ Phiên: Cờ phướn—Banners and
flags.
Kỳ Phùng: Extraordinary
meeting.
Kỳ Phùng Địch Thủ: Rivals of
equal skill
Kỳ Quái: Strange—Queer.
Kỳ Sự: Strange affair.
Kỳ Tài: Extraordinary talent.
Kỳ Thật: In reality—In fact—As
a matter of fact.
Kỳ Thị: To discriminate.
Kỳ Thỉnh: See Kỳ Thọ.
Kỳ Thọ: Kỳ Niệm—Kỳ Thỉnh—Cầu
thỉnh—To pray—To beg—To implore—To invite.
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên: Theo
Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển (dựa theo Pháp Uyển Châu
Lâm tập 39), vườn Kỳ Thọ gần thành Vương Xá, được cúng dường cho Phật và
Tăng đoàn của Ngài bởi Thái tử Kỳ Đà và nhà tỷ phú Cấp Cô Độc. Người ta
nói Ngài Cấp Cô Độc đã mua lại khu vườn nầy từ Thái tử Kỳ Đa bằng vàng,
xây dựng tịnh xá, rồi cúng dường cho Đức Phật. Thái tử Kỳ Đà rất cảm động
trước nghĩa cử ấy nên ông bèn hiến tất cả những cây và khoản đất còn lại.
Chính vì vậy mà khu vườn nơi Phật thường hay thuyết pháp nầy có tên đôi
của hai vị thí chủ là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (tức là cây của thái tử Kỳ Đà
và vườn của ông Cấp Cô Độc). Đây là khu an cư kiết hạ mà Đức Phật rất
thích. Hai trăm năm sau đó cả khu vườn và tịnh xá bị thiêu rụi, 500 năm
sau được xây lại nhỏ hơn, và rồi một thế kỷ sau lại bị đốt cháy rụi lần
nữa; mười ba năm sau đó được xây lại bằng khu tịnh xá nguyên thủy, nhưng
một thế kỷ sau đó lại bị hủy diệt (Về phương bắc nước Kiều Tát La—Kosala,
thành Xá Vệ—Sravasti, có vị trưởng giả giàu có tên Tu Đạt Đa—Sudatta, lại
cũng có tên là Cấp Cô Độ—Anathapindika, người đã mua khu vườn của Thái Tử
Kỳ Đà để kiến lập một khu tịnh xá cao rộng trang nghiêm mang tên Kỳ Thọ
Cấp Cô Độc Viên. Ông cung thỉnh Đức Phật và đệ tử của Ngài an cư kiết hạ
và giảng thuyết Phật pháp tại địa phương. Tu Đạt Đa là vị hộ pháp trung
thành của Phật giáo thời bấy giờ)—According to Professor Soothill in The
Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Jetavana Garden, or Garden
of Jeta and Anathapindika is a park near Sravasti, bought by Anathapindika
from prince Jeta, which was offered to the Buddha and his Sangha as a
result of the collaboration of Prince Jeta and billionaire Anathapindika.
It is said to have been obtained from Prince Jeta by the elder
Anathapindika. Anathapindika paid for Prince Jeta’s garden in gold,
erected monasterial buildings, and donated it to the Buddha. Prince Jeta
was very moved with this, thus he donated all the trees and another parcel
of land to the Buddha. Thus the double name for the site where the Buddha
preached his teachings: “The Garden of Jeta and Anathapindika.” This
garden was the favourite resort of Sakyamuni. Two hundred years later it
is said the park has been destroyed by fire, rebuilt smaller 500 years
after, and a gain a century later burnt down; thirteen years afterwards it
was rebuilt on the earlier scale, but a century later entirely
destroyed.
Kỳ Thọ Viên: Jetavana (skt)—See
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Kỳ Thú: Particularly
intersting.
Kỳ Thủy: At the beginning—At
the very start.
Kỳ Tuyệt: Very strange.
Kỳ Vĩ: Gigantic.
Kỳ Viên:
1) Kỳ
Thọ—Jetavanarama—Jetavana—Jeta Grove—The millionaire Sudatta, he was given
the epithet “Anathapindika.” He was the one who offered Jetavanarama to
the Buddha.
2) Tên
một ngôi chùa nổi tiếng của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam nằm trong quận
ba, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được Hòa Thượng Hộ Tông xây vào
năm 1952. Kỳ Viên là tên một tịnh xá mà thuở Đức Phật còn tại thế, ngài
hay đến đây cư ngụ qua những mùa an cư kiết hạ. Kỳ Viên là một trong những
ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thủy của Việt Nam đầu tiên. Các vị cao Tăng như
Hòa Thượng Hộ Tông, Hòa Thượng Thiện Luật, Hòa Thượng Bửu Chơn, Hòa Thượng
Tối Thắng, Hòa Thượng Ấn Lâm, Hòa Thượng Giới Nghiêm đều thường trụ tại
đây sau các nhiệm kỳ Tăng Thống—Name of a famous Theravadan Pagoda located
in the third district, Saigon City, South Vietnam. It was built by Most
Venerable Hộ Tông in 1952. Kỳ Viên or Jetavana was the name of a monastery
where Sakyamuni Buddha often stayed during his lifetime. It is one of the
first Theravadan pagodas of Vietnam. The high-ranking monks like Most
Venerables Hộ Tông, Thiện Luật, Bửu Chơn, Tối Thắng, Ấn Lâm, Giới Nghiêm
all stayed in the pagoda in their post Chairman of Vietnam Theravada
Buddhist Association.
Kỳ Viên Tinh Xá: The vihara and
Jetavana—See Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Kỳ Vọng: To hope—To desire—To
expect—To look for.
Kỳ Xà: Grdhra (skt)—Con kênh
kênh—A vulture.
Kỳ Xà Quật: Grdhrakuta
(skt)—See Grdhrakuta in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kỳ Xú Quỷ: See Ca Tra Phú Đơn
Na in Vietnamese-English Section.
Kỷ:
1) Điều
chỉnh: To regulate.
2) Tự
mình: Self—Personal—Own.
3) Khéo
léo: Kỷ xảo—Skill.
4) Kỷ
lục: A record.
5) Kỷ Nữ:
A singing girl—Courtesan.
6) Con
rận nhỏ: Liksa (skt)—A young louse.
7) Niên
kỷ: Một năm—A year.
8) Trứng
rận: The egg of a louse.
9) Một
chu kỳ 12 năm: A period of twelve years.
10) Một đơn
vị đo lường trọng lượng rất nhỏ: A minute measure of weight.
Kỷ Chứng: Tự Chứng—Tự mình
chứng ngộ chân lý, như trường hợp của Phật Thích Ca—Self-attained
assurance of truth, such as that of the Buddha.
Kỷ Cương: Rules—Laws.
Kỷ Cương Liêu: Phòng ở của vị
duy na (vị trông coi hết thảy tạp dịch trong chùa)—The office of the
director of duties.
Kỷ Giới: Buddhakaya (skt)—Phật
giới, ngược lại với phàm giới—The realm of Buddhas, in contrast with the
realm of ordinary beings.
Kỷ Lợi: Personal advantage or
profit.
Kỷ Luật: Disciplines.
Kỷ Luật Tự Giác: Own
disciplines.
Kỷ Nghệ Thiên Nữ: The
metamorphic devi on the head of Siva, perhaps the moon which is the usual
figure on Siva’s head.
Kỷ Nhạc: Female musicians and
performers.
Kỷ Niệm: To commemorate—In
remembrance of someone of something.
Kỷ Nữ: See Kỷ (3).
Kỷ Tâm: One’s own heart.
Kỷ Tâm Pháp Môn: The method of
the self-realization of truth—The intuitive method of meditation.
** For more information,
please see Chỉ Quán
and Chỉ Quán Tâm Định
Nhứt Xứ.
Kỷ Tâm Trung Sở hành Pháp Môn:
See Kỷ Tâm Pháp Môn.
Kỷ Thân Di Đà Duy Tâm Tịnh Độ:
Thân mình là Di Đà, Tâm mình là Tịnh Độ. Muôn pháp chỉ là một tâm, nên
ngoài chúng sanh ra không có Phật, mà cũng không có Tịnh Độ. Vì vậy, Di Đà
tức là Di Đà ở ngay trong bản thân và Tịnh Độ tức là Tịnh Độ ở ngay trong
lòng ta—Myself is Amitabha, my mind is the Pure Land. All things are but
the one mind, so that outside existing beings, there is no Buddha and no
Pure Land. Thus Amitabha is the Amitabha within and the Pure Land is the
Pure Land of the mind.
Kỷ Xảo: Skill—Skillful.
Kỹ Nhân: Nhà ảo thuật—A
magician, trickster, conjurer.
Kỵ:
1) Kỵ mã:
Cỡi ngựa—To ride—To astride.
2) Tránh
né: Avoid—Dread—Hate—Jealous—Tabu.
Kỵ Lư Tầm Lư: Cỡi lừa mà lại đi
tìm lừa, ý nói tự mình có Phật tánh mà mình không nhận biết được—To search
for your ass while riding it, i.e. not to recognize the mind of Buddha in
one’s self.
Kỵ Nhật: Húy Nhật—Ngày chết của
một người, của cha mẹ. Vì tưởng nhớ đến người quá cố mà kiêng tránh một số
việc làm trong ngày—The tabu day—The anniversary of the death of a person,
a parent, when all thoughts are directed to him, and other things avoided.
KH
Kha:
1) Bệnh
trầm kha: Sickness.
2) Cần
trục: Axe-handle.
3) Cười
kha kha: Laughter (kha-kha, or ha-ha).
4) Đau
đớn: Pain.
5) Địa
ngục ngọc thạch trắng: White Jade hell.
6) Mắng
chưỡi: To scold.
7) Ngáp:
To yawn.
8) Thở
ra: To breathe out.
Kha Bà Bà: See Ha Bà Bà.
Kha Bối: Đá quý hay vỏ sò đẹp
dùng làm tiền trong thời cổ—Jade or white quartz and shells (cowries),
usedd as money in ancient times.
Kha Dã Đát Na: Ayatana
(skt)—Lục Nhập—An organ of sense—See Lục Nhập in Vietnamese-English
Section, and Ayatana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Kha Đãn Ni: Khadaniya (skt)—Khư
Đà Ni—Tước Thực hay đồ ăn có thể xé, nhai, rồi nuốt như gốc, cành, hoa, lá
và quả (còn bồ-thiện-ni là đồ ăn ngoạm ngậm như cơm, mạch, cơm mạch đậu,
bánh)—Food that can be masticated or eaten.
Kha Địa La: Khadira (skt)—Còn
gọi là Khư Đà La, Khư Đạt La, Khư Đề Ca, Yết Đạt La, Yết Đạt Lạc Ca, Yết
Địa La, tên một loài cây dịch là Tử Khương Mộc—The mimosa.
Kha Địa La Sơn: Còn gọi là Khử
Đà La Sơn, Vòng núi Kha Địa La, vòng thứ năm trong bảy vòng núi Kim
Sơn—The Khadira circle of mountain, the fifth of the seven concentric
mountain chains of a world.
Kha Đốt La: Kotlan (skt)—Một
vương quốc cổ nằm về phía tây của Sùng Lĩnh, về phía nam hồ Karakal—An
ancient kingdom west of Tsung-Ling, south of Karakal lake.
Kha La La: See Ha La La.
Kha Lê: Khadiraka (skt)—Còn gọi
là Kha Địa Lạc Ca, tên núi—Name of a mountain.
Kha Lê Đà: Hariti or Harita, or
Haridra (skt)—A Lê Đà—A Lợi Đà—Quỷ Mẫu—The demon-mother.
Kha Lộ Chỉ: Arogya (skt).
1) Khỏe
mạnh: Freedom from sickness, healthy.
2) Lời
chào của một vị Tăng có tuổi hạ cao: A greeting from a superior monk (are
you well? Or Be you well?).
Kha Nguyệt: Trăng trong như
bạch ngọc—The jade-like or pearly moon.
Kha Thi Bi Dữ:
1) Địa
ngục Ha Bà Bà: Hahava (skt)—See Địa Ngục (B) (b) (5).
2) Trường
phái Ca Diếp: The Kasyapiya school.
Kha Tuyết: Ngọc thạch trắng như
tuyết—Snow-white as jade or white quartz.
Khá Giả: To be well-off.
Khá Khá: Passable good.
Khaû: May—can—Be able to.
Khả Ái:
Lovable—Lovely—Likable—Nice.
Khả Hãn: Kha Hãn, một từ ngữ
của Thổ Nhỉ Kỳ để chỉ vị Hoàng Thái Tử—Khan, a Turkish term for ‘prince.’
Khả Kính:
Respectable—Venerable.
Khả Năng:
Ability—Capability—Efficiency—Competence.
Khả Năng Nội Quán: Ability to
acquire insight.
Khả Năng Vào Định: Ability to
enter concentration—Access-concentration.
Khả Năng Xuất Hiện Quang Minh:
Ability to manifest the light.
Khả Năng Xuất Hiện Quang Minh Cũng Như
Phát Ra Như Lai Âm Bất Tư Nghì: Ability to manifest the light
and inconceivable sounds.
Khả Nghi: Doubtful—Suspicious.
Khả Ố: Detestable—Damnable.
Khả Phục: Admirable.
Khả Quan:
Satisfactory—Favorable.
Khác Biệt: Distinction between.
Khác Nhau:
Different—Unlike—Various.
Khác Thường:
Unusual—Extraordinary—Out of the ordinary.
Khách:
Guest—Visitor—Traveller—Outsider.
Khách Đường: Guest-room.
Khách Lữ Hành: Traveler—The
Buddha compared sentient beings as travelers in the darkness and suffering
of the three worlds (ba nẻo: world of desire, world of form, worl of
formless) and six realms (sáu đường: Heaven, Asura, Human, Animal, Hungry
ghost, Hell) of existence: Đức Phật ví chúng sanh như những kẻ lữ hành
trong bóng tối và khổ đau trong ba nẻo sáu đường.
Khách Qua Đường:
Passer-by—Stranger.
Khách Quan: Objective.
Khách Sáo: Ceremonious.
Khách Sơn: Tự viện nhỏ hay chi
nhánh của tự viện lớn để tiếp khách, đối lại với tự viện chính hay chủ
sơn—The guest hill, or branch monastery, in contrast with the chief one.
Khách Trần: Agantu-klesa
(skt)—Phiền Não—Guest-dust—Afflictions—Guest-defilement.
(A) Từ
“Klesa” nghĩa đen là sự đau đớn, bụi bậm bên ngoài, nỗi khổ đau, hay một
cái gì gây đau đớn, và được dịch là phiền não. Vì không có gì gây đau đớn
tâm linh bằng những ham muốn và đam mê xấu xa ích kỷ, nên “Agantuklesa còn
được dịch là phiền não: “Klesa” literally means “pain,” “external dust,”
“affliction,” or “ something tormenting” and is translated as
“affliction.” As there is nothing so tormenting spiritually as selfish,
evil desires and passions, klesa has come to be understood chiefly in its
derivative sense and external dust for agantuklesa.
(B) Giải
nghĩa từng chữ—Explaining in details:
1) Khách:
Phiền não không phải vốn có của tâm tánh, nhưng do mê lầm mà nổi dậy, nên
gọi là khách—The foreign atom, or intruding element, which enters the mind
and causes distress and delusion.
2) Trần:
Phiền não có công năng làm nhơ bẩn tâm tánh nên gọi là trần—The mind is
naturally pure or innocent till the evil element enters.
**For more information,
please see Phiền Não
in Vietnamese-English
Section, and Klesa in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Khách Ty: Tiếp Đãi Sở hay nơi
tiếp khách trong tự viện—Guest room, or place for reception of guests in a
monastery.
Khai:
1) Mở: To
open—To unfold—To disclose—To unloose.
2) Bắt
đầu: To begin.
3) Khai
mạc: Khánh thành—To inaugurate.
4) Khai
thị: To enlighten someone.
5) Tuyên
bố: To declare.
6) To
smell of ammonia.
Khai Ân: To do a favor.
Khai Bạch: Lời bắt đầu cho một
nghi thức lễ lạc (lời nói đầu tiên trong nghi lễ thì gọi là “khai bạch,”
nghĩa là cho biết lý do và mục đích của việc làm hay buổi lễ; lời nói sau
cùng gọi là “kết nguyện”)—To start from the bare ground; to begin a
ceremony.
Khai Báo: To declare.
Khai Bổn: Khai tích hiển bổn
(bắt đầu, lúc bắt đầu)—To commence; the very beginning; at the beginning;
to explain the very beginning.
Khai Cam Lộ Môn: Bố thí cho ngạ
quỷ—To open the ambrosial door (provide for hungry ghosts).
Khai Chẩm: Đi ngủ—To display
the pillow, i.e. retire to bed.
Khai Cụ: Kê khai tất cả những
tài sản của tự viện—To make an inventory in a monastery.
Khai Diễn: Thuyết pháp—To
explain at length, expound—To begin to perform.
Khai Đạo:
1) To
guide.
2) To
found (establish) a sect.
Khai Đạo Giả:
1) Người
khai mở đạo pháp, như Đức Phật: The Way-opener, Buddha.
2) Bất cứ
ai khai mở chân lý: Anyone who opens the way, or truth.
Khai Giá:
a) Khai:
Cho phép—To permit.
b) Giá:
Ngăn cấm—To prohibit.
Khai Giác: Làm cho Phật tánh
bản sơ được khai mở và tâm trí được giác ngộ—To awaken, to arouse; to
allow the original Buddha-nature to open and enlighten the mind—See Khai
Ngộ.
Khai Giải: To expound,
explain.
Khai Giảng: To begin to teach.
Khai Hiển: Khai Quyền Hiển
Thực—Từ mà tông Thiên Thai dùng để giải thích về Khai Quyền Hiển Thực. Đức
Phật đã khai quyền hiển thực bằng cách dùng phương tiện để làm sáng tỏ
chân lý (mở cửa phương tiện, thị hiện tướng chân thực) như trong Kinh Pháp
Hoa (14 phẩm đầu trong Kinh Pháp Hoa đều là khai cận hiển viễn hay khai
quyền hiển thực)—To open up and reveal; to expose the one and make
manifest the other. It is a term used by T’ien-T’ai, i.e. to expose and
dispose of the temporary or partial teaching, and reveal the final and
real truth as in the Lotus sutra.
Khai Hóa: Khai mở chuyển hóa
bằng cách dạy dỗ—To civilize, to teach, to transform the character by
instruction.
Khai Hoang: To clear waste
land.
Khai Hội: To open (begin) a
meeting.
Khai Huân: See Khai Tố.
Khai Khẩn: To clear waste land
for cultivation.
Khai Kinh Kệ: The text to begin
a sutra:
Vô thượng thậm thâm vi
diệu pháp.
(Pháp vi diệu rất sâu vô
lượng).
The unsurpassed, deepest
and wonderful dharma.
Bá thiên vạn kiếp nan tao
ngộ.
(Trăm ngàn muôn ức kiếp
khó gặp).
It is difficult to see
through thousands of lives.
Ngã kim kiến văn đắc thọ
trì.
(Tôi nay nghe thấy được
thọ trì).
Now I can see, hear and
recite.
Nguyện giải Như Lai chân
thiệt nghĩa.
(Nguyện hiểu nghĩa chân
thật của Như Lai).
Vowing to understand the
true meaning of Tathagata.
Khai Lý Lịch: To declare one’s
identification.
Khai Mạc Buổi Họp: To open a
meeting.
Khai Mạc Buổi Lễ: To
inaugurate—To open a ceremony.
Khai Ngộ: To awaken, to arouse,
to open up the intelligence and bring enlightenment.
Khai Nguyên:
1) Khai
mở một kỷ nguyên: To mark or open up an era.
2) Theo
Wylie trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, giai đoạn khai nguyên của nhà
Đường bên Trung Quốc là những năm đời vua Đường Huyền Tông 713-741 sau Tây
Lịch. Trong thời gian nầy (năm 730) thì nhà sư Trí Thăng đã cho xuất bản
một danh sách bằng Hoa ngữ mang tên “Khai Nguyên Thích Giáo Lục” cũng như
tóm lược của danh sách nầy là “Khai Nguyên Thích Giáo Lục Lược Xuất” từ
năm 67 sau Tây Lịch đến 730, gồm 176 tác giả và 2.278 dịch phẩm; tuy
nhiên, nhiều bộ sách đã không còn lúc ông đưa ra danh sách nầy: According
to Wylie in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms composed by
Professor Soothill, the K’ai-Yuan period of the T’ang emperor Hsuan-Tsang,
713-741 A.D.; during which the monk Chih-Chêng in 730 issued his “Complete
list of all the translations of Buddhist books into the Chinese language
from the year 67 A.D. up to the date of publication, embracing the labours
of 176 individuals, the whole amounting to 2,278 separate works, many of
which, however, were at that time already lost.” Its title was “The
Records of all Translations of Buddhist Works During the Early T’ang” and
its abbreviated version.
Khai Nhãn: To open one’s
eyes—See Khai Quang.
Khai Phá: To discover—To
detect.
Khai Pháp:
1) Sáng
lập ra tông phái, như Đức Phật khai sáng ra Phật giáo: To found a sect or
teaching, e.g. as Buddha founded Buddhism.
2) Phương
pháp bắt đầu: The method of opening, or beginning.
Khai Phát: Bắt đầu—To start, to
set forth, to begin.
Khai Phóng: To emancipate.
Khai phục: To reinstate.
Khai Quang: Lễ “Khai Quang Điểm
Nhãn” tượng Phật. Sau khi tượng Phật hoàn thành, chọn ngày dâng lễ cúng
dường Phật—Introducing the light, the ceremony of “opening the eyes” of an
image, i.e. painting or touching in the pupil.
Khai Quang Điểm Nhãn: The
ceremony of “opening the eyes”—Introducing to the light—See Khai Quang.
Khai Quyền Hiển Thực: Trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật dùng giáo pháp làm phương tiện quyền biến để
tỏ bày chơn lý—To expose and dispose of the temporary or partial teaching,
and reveal the final and real truth as in Lotus Sutra.
**For more information,
please see Khai Hiển.
Khai Sáng: To found.
Khai Sĩ:
1) Người
dùng Phật pháp để khai ngộ cho người khác: The hero who is enlightened,
or who opens the way of enlightenment.
2) Danh
hiệu của hàng Bồ tát: An epithet of the bodhisattva.
3) Danh
hiệu tôn xưng cho hàng Hòa Thượng: An honourable title for most
venerables.
Khai Sơn:
1) Mở
núi: To pierce a mountain.
2) Sáng
lập một tự viện hay tông phái: To establish a monastery, or to found
a sect.
Khai Tam Hiển Nhất: Theo Kinh
Pháp Hoa, tông Thiên Thai “Khai Tam Hiển Nhất” bằng cách chỉ rõ “tam thừa”
là phương tiện của “nhất thừa.” Chỉ rõ Nhất Thừa là giáo cao nhất để cứu
độ chúng sanh—According to the Lotus Sutra, the T’ien-T’ai sect utilizes
this method to explain the three vehicles, and reveal the reality of the
one method of salvation, as found in the Lotus sutra.
Khai Tâm: Khai mở hay phát
triển tâm trí—To open the heart (mind); to develop the mind; to initiate
into truth.
Khai Thác: To exploit.
Khai Thị:
1) Khai
thị cho ai: To enlighten someone.
2) Được
ai khai thị: To be enlightened by someone.
Khai Thị Ngộ Nhập: Bốn lý do
Phật thị hiện nơi cõi Ta Bà (Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, Đức Phật đã
dạy: “Này ông Xá Lợi Phất, thế nào gọi là chư Phật Thế Tôn vì đại sự nhân
duyên mà xuất hiện ở đời. Chư Phật Thế Tôn muốn chúng sanh giác ngộ tri
kiến Phật, khiến họ được thanh tịnh, nên đã xuất hiện ở đời. Vì muốn chúng
sanh thâm nhập vào tri kiến Phật, nên xuất hiện ở đời. Này ông Xá Lợi
Phất, đó là do chư Phật Thế Tôn có đại nhân duyên nên xuất hiện ở
đời.”)—The four reasons for a Buddha’s appearing in the world:
1)
Khai—Introduction: Khai mở tri kiến hay chân lý Phật, hay là mở ra sự thấy
biết của chư Phật cho chúng sanh y theo đó mà học hiểu, hầu phân biệt rõ
ràng được đâu đúng hay sai—To disclose, or to open up treasury of truth,
or to introduce and open the Buddhas’ views and knowledge to sentient
beings; so they can follow, learn, understand the truths, and clearly
distinguish right from wrong.
2)
Thị—Guidance: Chỉ bảo tri kiến Phật, giúp cho chúng sanh tu tập theo những
thấy biết chân chánh của chư Phật nhằm giúp họ y theo đó mà học hiểu, hầu
rõ được nẻo đúng đường sai, đâu phải, đâu trái để dứt bỏ những sai lầm cố
hữu—To display or to indicate the meanings of Buddhas’ teachings, or to
teach sentient beings to learn and patice the views and knowledge
introduced by Buddhas, to help them know clearly the proper path from the
inproper path, right from wrong, in order to eliminate the various false
views and knowledge.
3)
Ngộ—Awaken: Giác ngộ tri kiến Phật, tức là giác ngộ Phật pháp, xa lánh tà
pháp, để dứt lìa những khổ đau sanh tử nơi tam đồ ác đạo như các cõi địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, vân vân, để được sanh về các nẻo an vui của cảnh
trời người—Awaken means to realize or to cause men to apprehend it, or to
be awakened to the Buddha Dharmas, avoid false doctrines in order to
escape from sufferings of births and deaths in the three evil paths of
hell, hungry ghost, and animal, and be able to be reborn in the more
peaceful and happier realms of heaven and human.
4)
Nhập—Penetration: Thâm nhập vào tri kiến Phật, hay thâm nhập vào trong quả
vị giải thoát của Thánh nhơn, hay là đắc đạo, vượt thoát ra ngoài vòng
luân hồi sanh tử—To enter, or to lead them into it, or to penetrate deeply
into the enlightenment fruit of the saintly beings, being able to
transcend and to find liberation from the cycle of rebirths.
Khai Thiên Lập Địa: The
beginning period of the formation of the world.
Khai Thông Mạch: To release
blockages in the energy system.
Khai Thông Tâm Trí: To develop
the mind—To clear or remove ignorance in one’s mind.
Khai Tĩnh: Phá tan sự yên lặng
vào buổi sáng—Nhà chùa thường đánh mõ gỗ vào buổi sáng để đánh thức mọi
người (a. Tiểu Khai Tĩnh: cuối canh năm gõ mộc bản trước nhà kho để đánh
thức hành giả; b. Đại Khai Tĩnh: đến cuối canh năm gõ mộc bản khắp các nơi
cho mọi người trong chùa đều dậy)—To break the silence, i.e. rouse from
sleep.
Khai Tịnh: To break the
silence.
Khai Tố: Ngã mặn, được cho phép
trong trường hợp bệnh hoạn (trong trường hợp trên, người bệnh được phép
dùng gia vị và thịt, hoặc rượu để chữa bệnh)—To abandon vegetarianism, as
is permitted in case of sickness.
Khai Tổ: Vị sơ tổ sáng lập ra
một tông phái—The founder of a sect, or clan.
Khai Trai: Chư Tăng Ni ăn sáng
(Luật Tỳ Ni nói lúc rạng sáng hay minh tướng (lúc mặt trời soi bóng vào
cây Diêm Phù) thì khai trai—To break the fast, breakfast.
Khái Luận: General discussion.
Khái Lược: Summary.
Khái Niệm: Notion.
Khái Niệm Lầm Lẫn: Erroneous
notion.
Khái Niệm Nhị Nguyên: Dualistic
conception.
Khái Niệm Về Không Chấp Trước Trong
Nhà Thiền: The concept of
non-attachment in Zen Buddhism:
** Nhạn bay qua hồ,
Hồ soi bóng nhạn,
Nhạn không lưu bóng
mình,
Hồ cũng chẳng buồn
giữ ảnh nhạn.
** Swallows fly in the
sky,
The water reflects
their images,
The swallows leave no
traces,
Nor does the water
retain their images.
Khái Niệm Về Nghiệp: The notion
of karma
Khái Quát: To generalize.
Khái Thuyết: To preach
summarily.
Khải:
1) Bắt
đầu: To begin—To open.
2) Khải
giáp: Áo giáp—Armour.
Khải Bạch: Cáo bạch sự việc lên
chư Phật và chư Bồ Tát—To inform or make clear, especially to inform the
Buddhas—See Biểu Bạch.
Khải Đạo: To open the way.
Khải Đạo Viên: Counselor.
Khải Hành: To set out—To start.
Khải Hoàn: Triumphant return.
Khải Hoàn Môn: Triumphant arch.
Khải Tường: Tên của một ngôi
chùa cổ tọa lạc trong thôn Tân Lộc, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, Nam
Việt Nam. Chùa được xây khoảng thế thứ 18, đến năm 1832 chùa được Vua Minh
Mạng cho trùng tu để kỷ niệm nơi sinh của mình. Năm 1859, Tổng đốc Nguyễn
Tri Phương dùng chùa làm đồn lũy chống Pháp, đây cũng là nơi mà viên đại
úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé bị quân ta phục kích giết chết vào
đêm 6 tháng 12 năm 1860. Chùa bị giặc Pháp phá hủy vào năm 1867. Năm 1804,
chùa Quốc Ân Khải Tường được vua Gia Long dâng cúng pho tượng Phật bằng gỗ
mít thếp vàng. Tượng cao 2 mét 5, đế tượng cao 54 phân, bề ngang giữa hai
đầu gói là 1 mét 2. Khi chùa bị Pháp phá hủy, thì tượng nầy đã được dời đi
nhiều nơi nên đã bị hư hại nặng nề—Name of an ancient temple located in
Tân Lộc hamlet, Bình Dương disrict, Gia Định province, South Vietnam. The
temple was built in the eighteenth century. It was rebuilt by King Minh
Mạng to memorize his birthplace. In 1859, Marshall Nguyễn Tri Phương used
the temple as a military post against the French colonists. It is also
where Marine Captain Barbé fell into an ambush and was killed on December
6, 1860. It was destroyed by the French colonists in 1867. In 1804, a
statue of the Buddha, made of jacktree wood and gilded, was offered for
worshipping by King Gia Long to Quốc Ân Khải Tường Pagoda. The statue is
2.50 meters high, the pedestal itself is 0.54 meter high, the width
between the two knees is 1.20 meters. When the pagoda was gone, the statue
was moved to many places so it was seriously damged.
Kham:
1) Chịu
đựng: To bear—To sustain.
2) Đủ: To
be adequate to.
3) Nhà
mộ: A shrine.
4) Quan
tài cho vị Tăng: A coffin for a monk.
Kham Khổ: To live in narrow
circumstances—Austere.
Kham Năng: Ability to bear, or
to undertake.
Kham Nhẫn: Saha (skt)—Nhẫn nhục
chịu đựng khổ nạn—To bear—Patiently endure.
Kham Nhẫn Địa: Giai đoạn kham
nhẫn, sơ địa trong thập địa Bồ Tát (ở giai đoạn nầy Bồ Tát trên thì thọ
trì Phật Pháp, dưới thì cứu độ chúng sanh. Đối với sanh tử và Niết Bàn đều
tự tại. Theo Thường Đức thì gọi là Bất Động Địa, theo Lạc Đức thì gọi là
Kham Nhẫn Địa, theo Ngã Đức thì gọi là Vô Úy Địa, theo Tịnh Đức thông ba
Đức trên để bước lên Hàng Địa)—The stage of endurance, the first of the
ten Bodhisattva stages.
Kham Nhẫn Thế Giới: tên của thế
giới Ta Bà. Chúng sanh ở thế giới nầy phải nhẫn nhục chịu đựng mọi thứ xấu
xa ô trược—The saha world of endurance of suffering; any world of
transmigration.
Kham Tháp: Tháp một trong
chùa—A pagoda with shrines.
Khám: To investigate—To
examine.
Khám Biện: Thầy thử trình độ
tiến bộ của học trò; ngược lại học trò cũng xem xét tà chính của thầy—To
examine and define.
Khám Nghiệm: To investigate and
examine.
Khám Phá: Revelation (n).
Khám Xét: To examine.
Khan:
1)
Rare—Scarce.
2) To be
hoarse (khan giọng).
3) Xan
tham hay bỏn xẻn: Lobha (skt)—Stingy—Avaricious.
Khan Hiếm: Scarceness.
Khan Pháp: Lòng khan tham không
muốn chia sẻ chân lý đạo pháp cho người khác—Mean and grudging of the
Truth to others, unwillingness to part with it.
Khan Tâm: Tâm khan tiếc hèn
mọn—A grudging, mean heart.
Khan Tham: Lòng đã nuối tiếc
vật chất nên không bố thí, mà bụng lại còn ham muốn của người—Grudging and
greed.
Khán: To see—To look—To watch
over.
Khán Bệnh: Nuôi bệnh—To nurse
the sick or to attend a patient medically.
Khán Kinh Đường: Phòng Đọc
Kinh—Sutra Reading Hall.
Khán Phương Tiện: Để tâm chú ý,
thuật ngữ trong nhà Thiền—To fix the mind or attention, a Zen term.
Khản Tiếng: To become hoarse.
Khang:
1) Dễ
dàng: At ease.
2) Khang
ninh: Khỏe mạnh—Well.
3) Không
bị trở ngại: Undisturbed.
Khang Kiện: Healthy
Khang Ninh: To be in good
health.
Khang Phú: Healthy and rich.
Khang Phục: To be (get) well
again.
Khang Tăng Khải: Sanghavarman
(skt)—See Khương Tăng Hội.
Kháng: To proptest—To resist.
Kháng Án: To appeal to a court
against a decision.
Kháng Cáo: See Kháng Án.
Kháng Mệnh: To oppose an order.
Kháng Nghịch: To struggle
against the enemy.
Khảng Khái: Brave.
Khánh:
1) Chuông
hay khánh dùng trong nghi thức lễ lạc Phật Giáo: A little bell for
Buddhist ceremonies.
2) Đằng
hắng (tằng hắng): To clear the throat.
3) Nói
nhỏ nhẹ: To speak softly.
4) Vui vẻ
hạnh phúc: Fecility—Felicitous.
Khánh Chúc: To congratulate.
Khánh Chư Thiền Sư: Thạch Sương
Khánh Chư—Zen Master Shih-Shuang-Qing-Zhu—Thiền sư Khánh Chư sanh năm 806
tại Tân Cam, Lô Lăng. Năm 13 tuổi sư xuất gia theo Thiền sư Thiệu Loan,
năm 23 tuổi sư thọ cụ túc giới, sau đó sư học Luật Tạng—Zen master
Qing-Zhu was born in 806 in Xin-kan near ancient Lu-Ling. At 13 he left
home to follow Zen master Shao-Long and was fully ordained at the age of
23. He then proceeded to study the Vinaya Pitaka.
·
Một hôm sư ở trong liêu sàng gạo, Qui Sơn (Linh Hựu) đến
bảo: “Vật của thí chủ chớ ném bỏ.” Sư thưa: “Chẳng dám ném bỏ.” Qui Sơn
lượm trên đất một hạt gạo, bảo: “Ngươi nói chẳng ném bỏ, cái nầy từ đâu
đến?” Sư không trả lời. Qui Sơn lại bảo: “Chớ khi một hạt gạo nầy, trăm
ngàn hạt gạo cũng đều từ hạt gạo nầy mà sanh ra.” Sư thưa: “Trăm ngàn hạt
gạo từ một hạt nầy sanh, chưa biết một hạt nầy từ chỗ nào sanh?” Qui Sơn
cười ha hả rồi trở về phương trượng. Đến chiều Qui Sơn thượng đường bảo
chúng: “Đại chúng! Trong gạo có sâu.”—Qing-Zhu went to Mount Kui, where he
served as a rice cook. Once when he was preparing the rice, Kui-Shan said
to him: “Don’t lose anything offered by our patrons.” Qing-Zhu said: “I’m
not losing anything.” Kui-Shan reached down and picked up a single grain
of rice which had fallen to the ground and said: “You said you haven’t
lost anything, but what’s this?” Qing-Zhu didn’t answer. Kui-Shan said:
“Don’t lightly regard this one grain, a hundred thousand grains are born
from this one.” Qing-Zhu said: “A hundred thousand grains are born from
this one, but from what place is this one grain born?” Kui-Shan laughed,
“Ha, ha,” and went back to his room. That evening Kui-Shan entered the
hall and addressed the monks, saying: “Everyone! There’s an insect in the
rice. You should all go and see it.”
·
Sư đến tham vấn Đạo Ngộ, hỏi: “Thế nào chạm mắt là Bồ Đề?”
Đạo Ngộ gọi một vị sa di và vị sa di ấy đáp lời. Đạo Ngộ bèn bảo vị sa di:
“Thêm nước sạch (tịnh thủy) vào bình.” Sau một hồi im lặng, Đạo Ngộ lại
hỏi sư: “Ông vừa hỏi cái gì?” Sư thuật lại câu hỏi trước. Đạo Ngộ đứng dậy
đi. Sư nhơn đấy tỉnh giác—When Qing-Zhu met T’ao-Wu, he said: “What is the
transcendent wisdom that mees the eye?” T’ao-Wu called to an attendant and
the attendant respond. T’ao-Wu said to him: “Add some clean water to the
pitcher.” After a long pause, T’ao-Wu said to Qing-Zhu: “What did you just
come and ask me?” Qing-Zhu repeated his previous question when T’ao-Wu got
up and left the room. Qing-Zhu then had a great realization.
·
Đạo Ngộ bảo chúng: “Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có
một vật để lâu thành bệnh, người nào hãy vì ta mà dẹp nó đi?” Sư thưa:
“Tâm vật đều không thật, dẹp bỏ lại thêm bệnh.” Đạo Ngộ khen: “Lành thay!
Lành thay!”—When T’ao-Wu was about to die, he said: “There’s something in
my mind. An old trouble. Who can get rid of it for me?” Qing-Zhu said:
“All things in your mind are unreal. Get rid of good and bad?” T’ao-Wu
said: “Worthy! Worthy!”
·
Làm Tăng mới được hai tuổi hạ, sư bèn ẩn trong dân gian, vào
xóm thợ gốm vùng Lưu Dương, Trường Sa, sáng sớm dạo đi, đến chiều trở về,
mọi người không biết được sư. Nhơn một vị Tăng từ Động Sơn đến, sư hỏi:
“Hòa Thượng có lời gì dạy chúng?” Tăng đáp: “Hôm giải hạ, Hòa Thượng
thượng đường dạy: “Đầu thu cuối hạ, huynh đệ hoặc đi Đông đi Tây, đi nên
đi thẳng đến chỗ muôn dặm không có một tấc cỏ, đi làm gì?” Sư hỏi: “Có
người đáp được chăng?” Tăng nói: “Không.” Sư bảo: “Sao chẳng nói ‘Ra khỏi
cửa liền là cỏ.’” Tăng trở về thuật lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn bảo:
“Đây là lời nói của diệu trí thích hợp cho một vị trụ trì với 1500 Tăng
chúng (Ở Lưu Dương có cổ Phật).”—After being ordained for two years,
Qing-Zhu hid from the world. He lived in obscurity in Liu-Yang as a
potter’s assistant. In the morning he would go to work and in the evening
he would return home. No one knew him to be an adept.
T’ung-Shan-Liang-Zhie sent a monk to find him. Qing-Zhu asked the monk:
“What does T’ung-Shan say to provide instruction to his disciples?” The
monk said: “At the end of the summer practice period he said to the monks,
‘the fall has begun and the summer has ended. If you brethren go
traveling, you must go to the place where there isn’t a blade of grass for
ten thousand miles.’” “After a long pause, T’ung-Shan said: ‘How can one
go to a place where a single blade of grass isn’t found for ten thousand
miles?’” Qing-Zhu asked the monk: “Did anyone respond or not?” The monk
said: “No.” Qing-Zhu said: “Why didn’t someone say, ‘Going out the door,
there’s the grass.’” The monk went back and relayed what Qing-Zhu said to
T’ung-Shan. T’ung-Shan said: “This is the talk of wonderful knowledge
appropriate for an abbot of fifteen hundred people.”
Khánh Đản: Birthday.
Khánh Độc: Nghi lễ khánh thành
chùa hay an vị tượng Phật—A service of felicitation, e.g. on the
dedication of an image, temple, etc.
Khánh Hỷ: Thiền Sư Khánh Hỷ
((1066-1142)—Zen Master Khánh Hỷ—Thiền sư Việt Nam, quê ở Long Biên, Bắc
Việt. Ngài xuất gia và trở thành đệ tử của Thiền sư Bổn Tịch tại chùa Chúc
Thánh. Ngài là Pháp tử đời thứ 14 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Vua Lý Thần Tông
thỉnh ngài về triều và ban cho ngài chức vị cao nhất. Hầu hết đời ngài,
ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật giáo tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm
1142, thọ 76 tuổi—A Vietnamese Zen master from Long Biên, North Vietnam.
He left home and became a disciple of Zen master Bổn Tịch at Chúc Thánh
Temple. He was the Dharma heir of the fourteenth generation of the
Vinitaruci Zen Sect. King Lý Thần Tông invited him to the capital to offer
him the highest position. He spent most of his life to revive and expand
Buddhism in North Vietnam. He passed away in 1142, at the age of 76.
Khánh Kiệt: All
spent—Exhausted.
Khánh Long: Thiền sư Khánh
Long, quê ở Biên Hòa, Nam Việt. Ngài khai sơn chùa Hội Sơn ở Biên Hòa vào
cuối thế kỷ thứ 18 và hầu hết cuộc đời ngài hoằng hóa ở Nam Việt Nam. Ngài
đi đâu và thị tịch hồi nào không ai biết—A Vietnamese Zen Master from
Biên Hòa, South Vietnam. He was the founder of Hội Sơn temple in Biên Hòa,
South Vietnam in the late eighteenth century. He spent most of his life to
expand the Buddha Dharma in South Vietnam. His whereabout and when he
passed away were unknown.
Khánh Nhỏ: Small hand bell.
Khánh Quang: Tên một ngôi chùa
trong thành phố Cần Thơ, Tỉnh Cần Thơ, Nam Việt Nam. Chùa được xây dựng
năm 1969. Tên Khánh Quang được đặt ra để tưởng nhớ hai vị Hòa Thượng Khánh
Anh và Huệ Quang—Name of a temple, located in Cần Thơ City, Cần Thơ
province, South Vietnam. Khánh Quang Temple was built in 1969 in
commemoration of Most Venerable Khánh Anh and Most Venerable Huệ Quang.
Khánh Tận: Bankrupcy.
Khánh Thành: To inaugurate—To
open.
Khánh Thọ: To congratulate on
the occasion of a birthday.
Khánh Vân: Tên của một ngôi
chùa cổ ở làng Lưu Bảo, An Vân, Huế, Trung Việt. Khởi thủy chùa là am
Khánh Vân, do bà Nguyễn Thị Đạo, dì của một chúa Nguyễn xây dựng vào
khoảng dưới triều chúa Nguyễn Phước Châu. Năm 1732, Hòa Thượng Giác Thù
mua lại chùa từ tay bà Phạm Thị Lược. Ngài tái thiết chùa trên vị trí cũ.
Năm 1747, chúa Nguyễn Phước Hoạt đã cấp ngạch sắc tứ với ngự bút của
chúa: “Sắc Tứ Khánh Vân Tự.” Năm 1805, Hòa Thượng Khánh Đoan, một môn đệ
của Hòa Thượng Giác Thù, đã trùng tu chùa. Dưới triều vua Minh Mạng, Hòa
Thượng Tâm Trung lại tái thiết. Năm 1863, một đệ tử của ngài Nhất Tư đã mở
rộng qui mô của chùa và lợp lại mái ngói. Bộ Công đã vâng chỉ sơn thếp lại
biển vàng sắc tứ. Từ cuối thế kỷ thứ 19, chùa có vài lần bị hư hỏng vì gió
bão lụt lội, nhưng không nặng nề. Nhưng sau đó chùa bị cháy trong chiến
tranh, rồi một phần cơ ngơi được tạm dựng lại bị trận bão năm 1953 cuốn
trôi hết. Vào cuối thập niên 70s chùa được tái thiết trên nền cũ, nhưng
đơn giản hơn. Tại chùa hiện còn giữ chiếc chuông của chùa Bửu Sơn, thỉnh
từ chùa Thiên Mụ, sau khi chùa Ngọc Sơn bị giải thể—Name of an ancient
temple in Lưu Bảo village, Huế, Central Vietnam. The temple originated
from a small thatched house named Khánh Vân, built by a lady named Nguyễn
Thị Đạo, probably during the reign of Lord Nguyễn Phước Châu. In 1732,
Venerable Giác Thù purchased this temple from Mrs. Phạm Thị Lược. He
reconstructed the temple on the same site. In 1747, Lord Nguyễn Phước Hoạt
gave recognition to the temple with his autograph reading: “Sắc Tứ Khánh
Vân Tự.” In 1805, Most Venerable Khánh Đoan, a disciple of Most Venerable
Giác Thù, rebuilt the temple. During the reign of king Minh Mạng, Most
Venerable Tâm Trung rebuilt the temple again. In 1863, a disciple of Nhất
Tư enlarged the structure, installing tiled roofs. In 1871, the Ministry
of Construction received order to renew the gilted horizontal panel of the
temple. From the late nineteenth century, the temple was sometimes
affected by natural calamities, but damages were not very serious.
However, during the war with the French, the temple was burnt down. After
its reconstruction, it was swept away by the historic flood in 1953. In
the late 70s, the temple was rebuilt on the old site, but simpler. There
also remains a small bell of Bửu Sơn temple, transferred here from Thiên
Mụ temple after Ngọc Sơn temple was dismantled.
Khao Khát: To thirst for
something—To be desirous of something—Covetous—Desirous.
Khao Khát Ăn Ngon: Craving for
good food
Khao Khát Dục Lạc: Craving
Khao Khát Đời Sống Vĩnh Cửu:
Craving for eternal life
Khao Khát Làm Việc Gì: To be
eager to do something
Khao Khát Mặc Đẹp: Craving for
good clothes
Khao Khát Thú Vui: Craving for
pleasure
Khao Khát Vật Chất: Craving (to
crave) for material things
Khảo: See Nhị Khảo and Lục
Chủng Khảo.
1) To
examine.
2) To
torture.
3)
Challenges.
4)
Testing conditions.
Khảo Thí: To examine.
Khảo Nghiệm: To examine
thoroughly.
Khát: Trsna (skt)—To be
thirsty—Thirst.
Khát Ái: Tanha (p)—Trishna
(skt)—Craving—Thirst—See Ái Khát.
Khát Địa Ngục: Địa ngục nơi tội
nhân chịu khổ hình bằng cách nuốt những hòn sắt nóng—The thirst-hell,
where red-hot iron pills are administered.
Khát Già: Khadga (skt)—Khư
Già—Kiết Già—Con tê giác—A rhinoceros.
Khát Lộc: Con nai lúc khát nước
trông thấy hơi nước bốc lên từ xa lại tưởng là nước, dùng để ví với cái
tâm vọng tưởng của con người—The thirsty deer which mistakes a mirage for
water, i.e. human illusion.
Khát Ngưỡng: Mong muốn như
người khát nước—To long for as one thirsts for water.
Khát Pháp: Khát vọng tìm cầu
chân lý hay Phật đạo—To thirst for the truth, or for the Buddha-way.
Khát Thọ La: Kharjura (skt)—Tên
một loại chà là của xứ Ba Tư—A date—The wild date—The Persian date.
Khát Vọng: To aspire for—To
long for
Khắc:
1) Cắt:
To cut.
2) Khắc
chạm: To carve—To engrave.
3) Khắc
phục: To overcome—Successfully attain to.
4) Mười
lăm phút: A quarter of an hour.
5) Một
khoảnh khắc: An instant.
Khắc Cần Phật Quả Thiền Sư:
Cũng được biết với tên Viên Ngộ Khắc Cần, người tỉnh Tứ Xuyên. Vốn dòng
dõi nhà nho. Ngài là một cao Tăng đời nhà Tống, và là tác giả bộ sách Bích
Nham Lục nổi danh trong Thiền Giới. Từ tuổi ấu thơ ngài đã thuộc lòng kinh
điển Khổng Giáo. Một hôm dạo chơi chùa Diệu Tịch, tình cờ đọc được sách
Phật, nghe như đang nhớ lại những ký ức xa xưa. Sư nghĩ: “Kiếp trước chắc
mình là ông thầy tu.” Từ đó lúc nào ngài cũng cảm thấy bị Phật Giáo thu
hút nên đã vào một tu viện Phật Giáo để lao mình vào việc nghiên cứu kinh
điển Phật. Sau một cơn bệnh thập tử nhứt sanh, ngài nhận thấy rằng chỉ
riêng sự thông thái về sách vở sẽ không bao giờ cho phép mình khám phá ra
chơn lý sống động của Phật pháp, nghĩa là ‘Con đường chân chánh dẫn đến
Niết Bàn theo như chư Phật giảng dạy không nằm trong văn cú. Muốn tìm thấy
trong thanh và sắc, thì chỉ còn cách chết mà thôi.’ Đến khi bình phục, sư
từ bỏ phương pháp cũ, đến tham học với Thiền sư Chân Giác Thắng. Lối dạy
của Thiền sư Chân Giác Thắng là lấy dao chích vào cánh tay cho máu chảy
rồi bảo mỗi giọt máu chảy ra tứ Tào Khê (Tào Khê là nơi mà Lục Tổ Huệ Năng
đã sáng lập ra tông tông phái của ngài) và câu trên ám chỉ rằng phải đem
sinh mệnh ra mà thủ đắc Thiền. Được gợi hứng như thế, Khắc Cần Phật Quả
bái phỏng rất nhiều Thiền sư. Họ rất cảm khích bởi sự thành đạt của sư, có
vị còn nghĩ rằng chính sư sẽ là người dựng lên một tông phái đặc sắc mới
trong pháp môn của ngài Lâm Tế. Cuối cùng sư quyết định du phương tìm một
vị thầy thiền đã đạt được đại giác. Ngài du hành về phương nam Trung Quốc,
gặp Ngũ Tổ Pháp Diểãn, và ở lại làm thị giả cho Ngũ Tổ trong nhiều năm.
Nhưng Pháp Diễn không chịu ấn chứng kiến giải Thiền của sư. Sư nghĩ rằng
Pháp Diễn cứ một mực nói ngược lại với mình, bèn thốt lên những lời vô lễ
rồi bỏ đi. Khi sư sắp sửa rời khỏi Pháp Diễn, thì Pháp Diễn mới nói: “Đợi
đến khi bệnh ngặt, bấy giờ ông mới nhớ đến ta. Sư ở Kim Sơn, mắc chứng
thương hàn rất nặng, cố nhặt hết chỗ bình nhật bằng tất cả kinh nghiệm
thiền đã từng đạt được trước kia, nhưng chẳng giúp được gì. Sư bèn nhớ đến
lời của Pháp Diễn. Sau đó sư cảm thấy đở hơn nên trở lại với Thầy Pháp
Diễn. Thiền sư Pháp Diễn vui vẻ thấy đồ đệ đã ăn năn trở về lại. Từ đó sư
ở bên Thầy rất lâu. Ngay cả khi đã đạt được đại giác thâm sâu và đã được
ấn chứng xác nhận từ Ngũ Tổ, ngài vẫn tiếp tục ở lại bên thầy để rèn luyện
tâm linh—Ke-Ch’in-Fo-Kuo (1063-1135), also called Yuan-Wu Ko-Chin, a
native of Szechuan, was born in a Confucian family. He was one of the
famous monks in the Sung Dynasty and the author of a Zen text book known
as the ‘Pi-Yen-Lu.’ As a child he learned the Confucian classics by heart.
One day he went to Diệu Tịch monastery where he happened to read Buddhist
books, and felt as if he were recalling his old memories. He thought to
himself, “I must have been a monk in my previous life.” Since then he was
attracted to Buddhism and entered a Buddhist monastery, where he devoted
himself to the study of the sutras. After nearly dying from an illness, he
came to a conclusion that mere scholarly erudition could not bring one to
the living truth of the Buddha-dharma. It is to say: “The right way to the
attainment of Nirvana as taught by the Buddhas is not to be found in
words. I have been seeking it in sounds and forms and no doubt I deserve
death.” When he recovered, he quitted his old method, and came to a Zen
master named Chen-Chueh-Sheng. Master Sheng’s instruction consisted in
making his own arm bleed by sticking a knife into it and remarking that
each drop of the blood came from T’sao-Ch’i (T’sao-Ch’i is where the Sixth
Patriarch Hui-Neng founded his school) which meant that Zen demanded one’s
life for its mastery. Thus inspired, Ke-Ch’in-Fo-Kuo visited many Zen
masters. They were all well impressed with his attainment, and some even
thought that it was he who would establish a new original school in
teaching of Lin-Chi. Finally, he set out to find an enlightened Zen
master. He traveled to south China, where he eventually found and stayed
with Master Wu-Tsu-Fa-Yen, whom he served as an attendant for many years.
However, Fa-Yen refused to confirm his view of Zen. He thought Fa-Yen was
deliberately contradicting him . Giving vent to his dissatisfaction in
some disrespectful terms, he was about to leave Fa-Yen, who simply said:
“Wait until you become seriously ill one day when you will remember me.”
While at Chin-Shan, Fo-Kuo contracted a fever from which suffered
terribly. He tried to cope with it with all his Zen experiences which he
attained before, but to no purpose whatever. He then remembered Fa’Yen’s
prophetic admonition. Therefore, as soon as he felt better, he went back
to Wu-Tsu monastery. Fa-Yen was pleased to have his repentant pupil back.
Since then he stayed at Wu-Tsu for a long time. Even after he had realized
profound enlightenment under Wu-Tsu and had received from him the seal of
confirmation, he stayed with him to train further until the master's
death.
·
Thiền sư Khắc Cần Phật Quả sanh năm 1063. Thầy Thiền thuộc
dòng Lâm Tế, là môn đồ và người nối Pháp của Ngũ Tổ Pháp Diễn. Ông là thầy
của Đại Tuệ Tông Cảo. Thuở thiếu thời sư tinh thông Nho học. Người ta nói
mỗi ngày sư viết trên ngàn chữ. Một dịp viếng chùa Diệu Tự, thấy sách
Phật, sư cảm thấy như bắt được vật cũ. Sau đó sư xuất gia và thọ cụ túc
giới với Luật Sư Tự Tỉnh. Khi sư đến tu viện Kim Sơn, mắc bệnh nặng, nhớ
đến lời dạy của thiền sư Diễn ở Ngũ Tổ, sư nguyện khi bệnh tạm bớt sẽ trở
lại tham học với Ngài—Zen master Ke-Xin-Fo-Kua was born in 1063, a Chinese
Zen Master of the lineage of Lin-Chi Zen. He was a student and Dharma
successor of Wu-Tsu Fa-Yen. He was the teacher of Ta-Hui-Tsung-Kao. A
gifted youth who thoroughly studid the Confucian classics. He is said to
have written one thousand words everyday. During a visit to Miao-Tzu
Monastery, he obseved some Buddhist scriptures and was surprised by a
strong feeling that he had previously possessed them. He then left home
and received full-ordination with Vinaya Master Tzu-Shing. When he came to
Jin-Shan, he became seriuosly ill. Remembering Zen master WuTzu’s words,
he pledged to return to study with him when he recovered.
·
Một hôm Pháp Diễn có khách, khách vốn là quan đề hình đã
treo ấn từ quan trở về. Khách hỏi về đạo lý Thiền, Pháp Diễn nói: “Quan đề
hình có biết một bài thơ tiêu diễm mà bọn Thiền chúng tôi nhớ mài mại hai
câu cuối không? Đó là—One day, a visitor whose official business being
over was to go back to the capital. Being asked by him as to the teaching
of Zen, Fa-Yen said: “Do you know a romantic poem whose last two lines
somewhat reminds us of Zen? The lines are:
Cô nàng
gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng
tốt mã nghe ra thôi.
(Tần hô
Tiểu Ngọc nguyên vô sự
Chỉ yếu
Đàng lang nhận đắc thanh).
For the
maid she calls, why so often, when there’s no special work to do?
Only
this, perchance her voice is overheard by her lover.”
·
Nghe đọc xong, viên quan trẻ nói: “Vâng, vâng, thưa đại sư.”
Nhưng sư bảo ông đừng có nghe theo dễ dàng như thế—When this was recited,
the young officer said, “Yes, yes, master.” But he was told not to take it
too easily.
·
Từ ngoài trở vào, vừa nghe cuộc đàm đạo nầy Phật Quả hỏi:
“Nghe nói Hòa Thượng đọc bài thơ Tiêu diễm cho quan đề hình lúc tôi ra
ngoài, Đề hình có hiểu không?”—Fo-Kuo heard of this interview when he came
back from outside, and asked: “I am told you recite the romantic poem for
the young visitor while I was away. Did he understand?”
·
Pháp Diễn đáp: “Y nhận ra tiếng.”—Fa-Yen replied: “He
recognizes the voices.”
·
Phật Quả nói: “Câu thơ nói ‘Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi,
nếu như đề hình nghe ra tiếng’ y lầm lẫn ở chỗ nào?”—Fo-Kuo said: “As long
as the line says, ‘The thing is to have the lover overhear her voice,’ and
if the officer heard this voice, what is wrong with him?”
·
Không trả lời thẳng câu hỏi, Pháp Diễn bảo: “Ý Tổ sư Tây lại
là gì?” Cây bá trước sân. Thế là thế nào?” Tức thì tầm mắt Phật Quả mở ra
mà thấy đạo lý của Thiền. Sư chuồn ra khỏi thất, chợt thấy một con gà đang
xóc cánh mà gáy. Sư nói: “Đấy há không phải là tiếng?” Rồi sư làm bài kệ
giác ngộ nổi tiếng sau đây để trình lên thầy—Without directly answering
the question, the master abruptly said: "What is the Patriarch's idea of
coming from the West? The cypress-tree in the court-yard. How is this?”
This at once opened Fo-Kuo’s eye to the truth of Zen. He rushed out of the
room when he happened to see a cock on the railing give a cry, fluttering
its wings. He said: “Is this not the voice?” His famous verse of
enlightenment:
“Kim áp
hương tiêu cẩm tú vi,
Sảnh ca
tùng lý túy phù qui,
Thiếu
niên nhất đoạn phong lưu sự,
Chỉ hứa
giai nhơn độc tự tri.”
(Quạ vàng
hương kín túi gấm thêu,
Nhịp ca
tùng rậm say dìu về,
Một đoạn
phong lưu thuở thiếu niên,
Chỉ nhận
giai nhơn riêng tự hay.
Hòa
Thượng Thích Thanh Từ dịch).
“The
golden duck vanishes into the gilt
brocade.
With
a rustic song, the drunkard returns
in
the woods.
A
youthful love affair.
Is
known only by the young beauty.”
·
Pháp Diễn góp lời thêm: “Việc lớn một đời của Phật và Tổ,
chẳng phải người căn nhỏ chất kém mà có thể tạo nghệ được. Ta giúp vui cho
ngươi đó.”—Master Fa-Yen added: “he great affair of life that has caused
the Buddha and patriarchs to appear among us is not meant for small
characters and inferior vessels. I am glad that I have been a help to your
delight.”
·
Viên Ngộ là một trong những thiền sư xuất sắc nhất trong
thời của ngài. Nhờ có ngài và em trai của ngài (kém hơn ngài 20 tuổi) là
Vô Môn Khai Tuệ, cũng là môn môn đồ của dòng Thiền Lâm Tế, mà Thiền Tông
Trung Quốc đã trải qua một thời phồn thịnh, trước khi các tổ truyền từ
“tâm truyền tâm.”—Yuan-Wu Ko-Chin was one of the most important Zen
masters of his time. With masters like him and the twenty-years-younger
brother, Wu-Men-Hui-K’ai, also in the lineage of Lin-Chi Zen, Chinese Zen
reached the last peak of its development in China before the dharma
transmitted by the patriarchs from heart-mind to heart-mind.
·
Sau khi Ngũ Tổ Pháp Diễn thị tịch, Viên Ngộ trở về miền bắc.
Tại đây các quan trong triều và ngay cả Hoàng Đế Huệ Tông đã bổ nhiệm ngài
làm viện trưởng các tu viện Thiền lớn khác nhau. Khi người Khuất Đan chinh
phục miền bắc Trung Quốc, ngài đã trở lại miền nam. Tuy nhiên, chẳng bao
lâu sau, ngài đã lên đường trở về quê hương và hoằng hóa ở đây cho đến lúc
thị tịch—After Fa-Yen passed away, Yuan-Wu set out for the north, where he
was appointed by high state officials and finally by Emperor Hui-Tsung
himself to the abbacy of various large Zen monasteries. When the Kitan
conquested the north of China, Yuan-Wu returned to the south. However, he
soon returned to his home province and was active there as a Zen master
until his death.
·
Cuối tháng tám năm 1135, có vẻ hơi nhuốm bệnh, sư ngồi kiết
già viết kệ để lại cho Tăng chúng. Đoạn sư ném bút thị tịch. Tháp cốt của
sư bên cạnh chùa Chiêu Giác—Late in August in the year 1135, Fo-Kua
appeared to be slightly ill. He sat cross-legged and upright, composed a
farewell verse to the congregation. Then, putting down the brush, he
passed away. His cremated remains were placed in a stupa next to Zhao-Zhue
Temple.
Khắc Cần Viên Ngộ Thiền Sư: See
Khắc Cần Phật Quả Thiền Sư.
Khắc Chung: Chắc chắn sẽ đạt
được thành quả do sự tu tập—Successfully end, certainty of obtaining the
fruit of one’s action.
Khắc Chứng: Sự chắc chắn đạt
được chứng ngộ—The assurance of success in attaining enlightenment.
Khắc Cốt Ghi Tâm: To engrave on
one’s memory.
Khắc Phục: To control—To
master—To overcome—To subdue.
Khắc Khổ: To live a hard life.
Khắc Nghiệt:
Stern—Strict—Severe.
Khắc Phục: To overcome—To
subdue.
Khắc Phục Hoài Nghi: To
overcome doubts.
Khắc Quả: Đạt thành quả vị
Phật, hay đắc quả—To attain the Buddhahood; to obtain the fruit of
endeavour; the fruit of effort, i.e. salvation.
Khắc Tạng: Khắc chạm kinh điển
(trên gỗ hay trên đá)—To engrave the canon (on wood or on stone).
Khắc Thánh: Sự chắc chắn đạt
được quả vị A La Hán—The certainty of attaining arhatship.
Khắc Thức: Sự hiểu biết tốt xấu
của con người—The certainty of the knowledge by the spirits, or men’s good
and evil.
Khắc Thực: Tìm ra chân lý—To
discover the truth.
Khăng Khăng: Stubbornly.
Khăng Khăng Giữ Ý: To cling to
an opinion.
Khẳng Định: To affirm.
Khắp: All over.
Khắp Nơi: Everywhere.
Khắp Thế Giới: All over the
world.
Khắt Khe: Severe—Stern—Austere.
Khâm Bái: To salute
respectfully
Khâm Phục: To admire.
Khâm Sơn Văn Thúy:
Ch’in-Shan-Wen-Shui—See Văn Thúy Khâm Sơn Thiền Sư.
Khẩn Khoản: To insist.
Khấn Vái: To pray.
Khấn Vái Lầm Thầm: To mumble a
prayer.
Khẩn:
1) Cột
chặt lại: To tight—To bind tight—Pressing.
2) Khẩn
cấp: Urgent.
Khẩn Chúc Ca: Kimsuka
(skt)—Chân Thúc Ca—Kiên Thúc Ca.
1) Tên
của một loại đá quý (báu vật) màu hồng ngọc: Name of a ruby-coloured
precious stone.
2) Tên
của một loại cây ở vùng bắc Ấn Độ: Name of a tree in northern India.
Khẩn Khoản: To insist.
Khẩn Na La: Kinnara (skt)—Chân
Đà La—Khẩn Đà La—Khẩn Nại La—Khẩn Nại Lạc—Một bộ chúng trong Thiên Long
Bát Bộ, là một loại chúng sanh có tài tấu nhạc ở cõi trời có mình người
đầu thú. Chúng được diễn tả là nhân phi nhân. Con giống đực có tài ca hát,
trong khi con giống cái có tài nhảy múa—Kinnara, one of the devas, nagas
and others of the eight groups, a kind of mystical celestial musicians of
Kuvera or heavenly beings with human bodies and animal (horses’) heads.
They are described as “men yet not men.” The males sing, and the females
dance—See Kinnara in English-Vietnamese and Sanskrit/Pali-Vietnamese
Sections.
Khẩn Thiết: To be sincere.
Khẩn Thiết Chí Thành: In
extreme earnestness.
Khẩn Yếu: Urgent and important.
Khập Khiễng: To limp—To cripple
along—To hobble.
Khất: To ask for a delay.
Khất Cái: To beg.
Khất Nhãn Bà La Môn: Trong tiền
kiếp, có vị Bà La Môn đến xin mắt của ngài Xá Lợi Phất, rồi bỏ xuống đất
chà đạp là cho Xá Lợi Phất thối tâm không thể trở thành Bồ Tát trong kiếp
kế tiếp—The Brahman who begged one of Sariputra’s eye in a former
incarnation, the trampled on it, causing Sariputra to give up his efforts
to become a bodhisattva one more life time.
Khất Nợ: To ask for a delay to
pay one’s debts.
Khất Sĩ: A Bhiksu—A mendicant
scholar—A religious mendicant, an alm man, one who has left home, been
fully ordained, and depends on alms for a living.
Khất Thực:
(I) Nghĩa
chung của Khất Thực—General meanings of Mendicancy: Khất thực của Tăng
nhân. Nghĩa đen có nghĩa là “cầm bát.” Có nhiều hình thức khất thực, nhưng
các vị sư trong các tịnh xá của hệ phái Tăng Già Khất Sĩ thường đi thành
nhóm từ 10 đến 15 vị, đi thật chậm, chân không, và đi từng bước một xuyên
qua phố thị, các ngài thường nhìn xuống đất và không nói chuyện. Khất thực
là sống đúng theo chánh mạng của một nhà sư, ngược lại với những vị sư mà
còn đi làm thì gọi là sống theo tà mạng. Ngoài ra khất thực còn tạo cho
chư Tăng phẩm chất khiêm cung từ tốn, cũng như không trau tria cuộc
sống—Religious mendicancy—To beg for food. Literally “holding the bowl.”
There are many forms of mendicancy, but monks in monasteries of Sangha
Bhiksu Sect usually do it in group of ten or fifteen. As they walk very
slowly (bare-footed and step by step) through the streets of a town, face
down, without speaking. Mendicancy is the right livelihood of a monk. To
work for a living is an improper life. In addition, mendicancy keeps a
monk humble, and frees him from cares of life.
(II) Theo Kinh Duy Ma Cật—According to the
Vimalakirti Sutra:
a) Duy Ma
Cật nói với ngài Đại Ca Diếp về tối thượng nghĩa của Khất Thực khi gặp ông
nầy đi khất thực trong xóm nhà nghèo—Vimalakirti told Maha-Kasyapa about
the supreme meaning of “Mendicancy” when he saw Maha-Kasyapa went begging
for food in a village inhabited by poor people:
·
‘Này ngài Đại Ca Diếp! Có lòng từ bi mà không phổ cập là bỏ
nhà giàu mà đi đến nhà nghèo. Ngài Đại Ca Diếp! Ở Pháp bình đẳng nên đi
khất thực theo thứ lớp. Vì không ăn mà đi khất thực; vì phá tướng hòa hiệp
mà bốc cơm ăn; vì không nhận mà nhận món ăn của người; vì tưởng không tụ
mà vào làng xóm; có thấy sắc cũng như người đui; có nghe tiếng cũng như
vang; có ngửi mùi cũng như gió; lúc nếm vị không phân biệt; chạm các vật
như trí chứng; biết các Pháp tướng như huyễn, không có tự tánh, không có
tha tánh, trước vốn không sanh, nay cũng không diệt—“Mahakasyapa, you are
failing to make your kind and compassionate mind all-embracing by begging
from the poor while staying away from the rich. Mahakasyapa, in your
practice of impartiality you should call on your donors in succession
(regardless of whether they are poor or rich). You should beg for food
without the (ulterior) idea of eating it. To wipe out the concept of
rolling (food into a ball in the hand) you should take it by the hand
(i.e. without the idea of how you take it). You should receive the food
given without the idea of receiving anything. When entering a village you
should regard it as void like empty space. When seeing a form you should
remain indifferent to it. When you hear a voice you should consider it
(as meaningless as) an echo. When you smell an odor take it for the wind
(which has no smell). When you eat, refrain from discerning the taste.
Regard all touch as if you were realizing wisdom (which is free from
feelings and emotions). You should know that all things are illusory,
having neither nature of their own nor that of something else, and that
since fundamentally they are not self-existent they cannot now be the
subject of annihilation.
·
Ngài Đại Ca Diếp! Nếu có thể không bỏ bát tà mà vào bát giải
thoát, dùng bát tướng mà vào Chánh Pháp, dùng một bữa ăn mà thí cho tất
cả, cúng dường chư Phật và các bực hiền thánh rồi sau mới ăn. Ăn như thế,
không phải có phiền não, không phải rời phiền não, không phải vào định ý,
không ra định ý, không phải ở thế gian, không phải ở Niết Bàn, người thí
không có phước lớn, không có phước nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn
hại, đó chính là vào Phật đạo, không nương theo hạnh Thanh Văn. Ngài Ca
Diếp! Nếu ăn như thế là ăn đồ cúng thí của người không uổng
vậy—Mahakasyapa, if you can achieve all eight forms of liberation without
keeping from the eight heterodox ways (of life), that is by identifying
heterodoxy with orthodoxy (both as emanating from the same source), and if
you can make an offering of your (own) food to all living beings as well
as to all Buddhas and all members of the Sangha, then you can take the
food. Such a way of eating is beyond the troubles (of the worldly man)
and the absence of the troubles of Hinayana men); above the state of
stillness (in which Hinayana men abstain from eating) and the absence of
stillness (of Mahayana men who eat while in the state of serenity); and
beyond both dwelling in the worldly state or in nirvana, while your donors
reap neither great nor little merits, what they give being neither
beneficial nor harmful. This is correct entry upon the Buddha path
without relying on the small way of sravakas. Mahakasyapa, if you can so
eat the food given you, your eating shall not be in vain.”
b)
Duy Ma Cật nói với Tu Bồ Đề về tối thượng nghĩa của “Khất Thực” khi
ông nầy khất thực trước nhà của Duy Ma Cật. Lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật
lấy cái bát của Tu Bồ Đề đựng đầy cơm rồi nói với ông ta như
sau—Vimalalakirti told Subhuti about the supreme meanings of “Mendicancy”
when Subhuti went to Vimalakirti’s house begging for food. Vimalakirti
took Subhuti’s bowl and filled it with rice, saying:
·
“Thưa ngài Tu Bồ Đề! Đối với cơm bình đẳng, thì các Pháp
cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng, đi khất thực
như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không trừ dâm nô si, cũng không
chung cùng với nó, không hoại thân mà theo một hình tướng, không dứt si ái
sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch mà đặng giải thoát, không mở cũng
không buộc, không thấy tứ đế cũng không phải không đắc quả, không phải
phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không phải Thánh nhơn, không phải
không Thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp mà rời tướng các Pháp, thế
mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề không thấy Phật, không nghe Pháp, bọn lục
sư ngoại đạo kia như Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử, San Xà Dạ
Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Ba La, Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni
Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của ngài. Ngài theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư
kia đọa, ngài cũng đọa theo, mới nên lấy món ăn—“Subhuti, if your mind set
on eating is in the same state as when confronting all (other) things, and
if this uniformity as regards all things equally applies to (the act of)
eating, you can then beg for food and eat it. Subhuti, if without cutting
off carnality, anger and stupidity you can keep from these (three) evils:
if you do not wait for the death of your body to achieve the oneness of
all things; if you do not wipe out stupidity and love in your quest of
enlightenment and liberation; if you can look into (the underlying nature
of) the five deadly sins to win liberation, with at the same time no idea
of either bondage or freedom; if you give rise to neither the four noble
truths nor their opposites; if you do not hold both the concept of winning
and not winning the holy fruit; if you do not regard yourself as a worldly
or unworldly man, as a saint or not as a saint; if you perfect all Dharmas
while keeping away from the concept of Dharmas, then can you receive and
eat the food. Subhuti, if you neither see the Buddha nor hear the Dharma;
if the six heterodox teachers, Purana-kasyapa, Maskari-gosaliputra,
Yanjaya-vairatiputra, Ajita-kesakambala, Kakuda-katyayana and
Nirgrantha-jnatiputra are regarded impartially as your own teachers and
if, when they induce leavers of home into heterodoxy, you also fall with
the latter; then you can take away the food and eat it.
·
Tu Bồ Đề! Nếu ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi
tám nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, ngài được vô tránh tam
muội, tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho ngài
chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho ngàiđọa vào ba đường ác,
ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ngài cùng với các ma và các trần
lao như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận,
khinh báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng Tăng, hoàn toàn không
được diệt độ, nếu ngài được như thế mới nên lấy món ăn—If you are
(unprejudiced about) falling into heresy and regard yourself as not
reaching the other shore (of enlightenment); if you (are unprejudiced
about) the eight sad conditions and regard yourself as not free from them;
if you (are unprejudiced about) defilements and relinquish the concept of
pure living; if when you realize samadhi in which there is absence of
debate or disputation, all living beings also achieve it; if your donors
of food are not regarded (with partiality) as (cultivating) the field of
blessedness; if those making offerings to you (are partially looked on as
also) falling into the three evil realms of existence; if you (impartially
regard demons as your companions without differentiating between them as
well as between other forms of defilement; if you are discontented with
all living beings, defame the Buddha, break the law (Dharma), do not
attain the holy rank, and fail to win liberation; then you can take away
the food and eat it.
(III) Những
lời Phật dạy về Khất Thực trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on
“Begging” in the Dharmapada Sutra:
1) Chỉ
mang bình khất thực, đâu phải là Tỳ kheo! Chỉ làm nghi thức tôn giáo, cũng
chẳng Tỳ Kheo vậy!—A man who only asks others for alms is not a mendicant!
Not even if he has professed the whole Law (Dharmapada 266).
2) Bỏ
thiện và bỏ ác, chuyên tu hạnh thanh tịnh, lấy “biết” mà ở đời, mới thật
là Tỳ Kheo—A man who has transcended both good and evil; who follows the
whole code of morality; who lives with understanding in this world, is
indeed called a bhikshu (Dharmapada 267).
Khất Thực Bình Đẳng: The
impartiality of alms-begging—See Khất Thực (B).
Khất Thực Quá Duyên: Along the
way to beg for food to create opportunities to convert the people.
Khất Thực Tứ Phân: Bốn phần
khất thực: cho bạn đồng tu, cho kẻ nghèo nàn, cho ma đói, và cho mình—The
four division of the mendicant’s dole: to provide for fellow religionists,
the poor, the hungry spirits and self.
Khật Khùng: Rather
mad—Silly—Foolosh.
Khấu Đầu: To bow down to the
ground.
Khấu Giảm: To diminish—To
deduct.
Khấu Tạ: To bow one’s thanks to
someone.
Khẩu: Mukkha (p)—Mukha
(skt)—Mouth (the organ of speech).
Khẩu Ấn: The mouth sign.
Khẩu Đầu Thiền: Đây là phương
pháp buông xả hơn là thiền, hành giả tùy thuộc vào sự hướng dẫn của người
khác chứ không có khả năng tự vào thiền—Mouth meditation is a mode of
relaxation rather than meditation, in which cultivator depends on the
leading of others, inability to enter into personal meditation.
Khẩu Hòa: Harmony of mouths or
voices—Unanimous approval.
Khẩu Khí: Manner of speaking.
Khẩu Luân: The wheel of the
mouth—Bánh xe chánh pháp hay những lời giáo huấn của Đức Phật truyền đi
khắp nơi phá tan phiền não—The wheel of true teaching. Buddha’s teaching
rolling on everywhere, like a chariot-wheel, destroying misery.
Khẩu Mật: Khẩu mật là một trong
tam mật (thân, khẩu, ý)—The mystic of the mouth (secret or magical words),
one of the three mystics. The other two are the mystic of the body and the
mystic of the mind.
Khẩu Nghiệp: Vaca-kamman
(p)—Vaca-karman (skt)—An act performed by speech—Khẩu nghiệp là một trong
tam nghiệp. Hai nghiệp còn lại là thân nghiệp và ý nghiệp—Karma of the
mouth is one of the three karmas. The other two are karma of the body and
of the mind.
(A) Nghĩa của
khẩu nghiệp—The meanings of Karma of the mouth: Nghiệp nơi miệng, một
trong ba nghiệp. Hai nghiệp kia là thân nghiệp và ý nghiệp. Theo lời Phật
dạy thì cái quả báo của khẩu nghiệp còn nhiều hơn quả báo của thân nghiệp
và ý nghiệp, vì ý đã khởi lên nhưng chưa bày ra ngoài, chứ còn lời vừa
buông ra thì liền được nghe biết ngay. Dùng thân làm ác còn có khi bị ngăn
cản, chỉ sợ cái miệng mở ra buông lời vọng ngữ. Ý vừa khởi ác, thân chưa
hành động trợ ác, mà miệng đã thốt ngay ra lời hung ác rồi. Cái thân chưa
giết hại người mà miệng đã thốt ra lời hăm dọa. Ý vừa muốn chưởi rủa hay
hủy báng, thân chưa lộ bày ra hành động cử chỉ hung hăng thì cái miệng đã
thốt ra lời nguyền rủa, dọa nạt rồi. Miệng chính là cửa ngõ của tất cả oán
họa, là tội báo nơi chốn a tỳ địa ngục, là lò thiêu to lớn đốt cháy hết
bao nhiêu công đức. Chính vì thế mà cổ nhân thường khuyên đời rằng: “Bệnh
tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất,” hay bệnh cũng từ nơi cửa miệng mà họa
cũng từ nơi cửa miệng. Nói lời ác, ắt sẽ bị ác báo; nói lời thiện, ắt sẽ
được thiện báo. Nếu bạn nói tốt người,bạn sẽ được người nói tốt; nếu bạn
phỉ báng mạ lỵ người, bạn sẽ bị người phỉ báng mạ lỵ, đó là lẽ tất nhiên,
nhân nào quả nấy. Chúng ta phải luôn nhớ rằng “nhân quả báo ứng không
sai,” mà từ đó can đảm nhận trách nhiệm sữa sai những việc mình làm bằng
cách tu tập hầu từ từ tiêu trừ nghiệp tội, chớ đừng bao giờ trách trời oán
người—The work of the mouth—Karma of the mouth (talk, speech)—One of the
three karma. The others are karma of the body (thân nghiệp) and karma of
thought (ý nghiệp). According to the Buddha’s teachings, the karmic
consequences of speech karma are much greater than the karmic consequences
of the mind and the body karma because when thoughts arise, they are not
yet apparent to everyone; however, as soon as words are spoken, they will
be heard immediately. Using the body to commit evil can sometimes be
impeded. The thing that should be feared is false words that come out of
a mouth. As soon as a wicked thought arises, the body has not supported
the evil thought, but the speech had already blurted out vicious slanders.
The body hasn’t time to kill, but the mind already made the threats, the
mind just wanted to insult, belittle, or ridicule someone, the body has
not carried out any drastic actions, but the speech is already rampant in
its malicious verbal abuse, etc. The mouth is the gate and door to all
hatred and revenge; it is the karmic retribution of of the Avichi Hell; it
is also the great burning oven destroying all of one's virtues and merits.
Therefore, ancients always reminded people: “Diseases are from the mouth,
and calamities are also from the mouth.” If wickedness is spoken, then one
will suffer unwholesome karmic retributions; if goodness is spoken, then
one will reap the wholesome karmic retributions. If you praise others, you
shall be praised. If you insult others, you shall be insulted. It’s
natural that what you sow is what you reap. We should always remember
that the “theory of karmic retributions” is flawless, and then
courageously take responsibility by cultivating so karmic transgressions
will be eliminated gradually, and never blame Heaven nor blaming others.
(B) Cổ đức và
Thánh nhân có dạy về chín loại nghiệp báo của khẩu nghiệp như sau—Ancients
and Saintly beings have taught about nine kinds of karma of the mouth as
follows:
1) Miệng
niệm hồng danh chư Phật cũng như nhả ra châu ngọc, sẽ quả báo sanh về cõi
Trời hay cõi Tịnh Độ của chư Phật: Mouth chanting Buddha Recitation or any
Buddha is like excreting precious jewels and gemstones and will have the
consequence of being born in Heaven or the Buddhas’ Purelands.
2) Miệng
nói ra lời lành cũng như phun ra mùi hương thơm, ắt sẽ được quả báo mình
cũng được người nói tốt lành như vậy: Mouth speaking good and wholesomely
is like praying exquisite fragrances and one will attain all that was said
to people.
3) Miệng
nói ra lời giáo hóa đúng theo chánh pháp, cũng như phóng ra hào quang ánh
sáng phá trừ được cái mê tối cho người và cho mình: Mouth encouraging,
teaching, and aiding people is like emitting beautiful lights, destroying
the false and ignorant speech and dark minds for others and for self.
4) Miệng
nói ra lời thành thật cũng như cấp cho người lạnh lụa tốt cho họ được ấm
áp thoải mái: Mouth speaking truths and honesty is like using valuable
velvets to give warmth to those who are cold.
5) Miệng
nói ra lời vô ích cũng như nhai nhai mạt cưa, phí sức chứ không ích lợi gì
cho mình cho người. Nói cách khác, cái gì không hay không tốt cho người,
tốt hơn là đừng nói: Mouth speaking without benefits for self or others is
like chewing on sawdust; it is like so much better to be quiet and save
energy. In other words, if you don’t have anything nice to say, it is best
not to say anything at all.
6) Miệng
nói ra lời dối trá, cũng như lấy giấy che miệng giếng, ắt sẽ làm hại người
đi đường, bước lầm mà té xuống: Mouth lying to ridicule others is like
using paper as a cover for a well, killing travelers who fall into the
well because they were not aware, or setting traps to hurt and murder
others.
7) Miệng
nói ra các lời trêu cợt bất nhã, cũng như cầm gươm đao quơ múa loạn xã nơi
kẻ chợ, thế nào cũng có người bị quơ trúng: Mouth joking and poking fun is
like using words and daggers to wave in the market place, someone is bound
to get hurt or die as a result.
8) Miệng
nói ra lời độc ác cũng như phun ra hơi thúi, ắt sẽ bị quả báo mình cũng sẽ
bị xấu ác y như các điều mà mình đã thốt ra để làm tổn hại người vậy:
Mouth speaking wickedness, immorality, and evil is like spitting foul
odors and must endure evil consequences equal to what was said.
9) Miệng
nói ra các lời dơ dáy bẩn thỉu cũng như phun ra dòi tửa, ắt sẽ bị quả báo
chịu khổ nơi hai đường ác đạo là địa ngục và súc sanh: Mouth speaking
vulgarly, crudely, and uncleanly is like spitting out worms and maggots
and will face the consequences of hell and animal life.
(C) Phật tử
chơn thuần nên luôn nhớ và phát triển tâm biết sợ và gìn giữ khẩu nghiệp
của mình—Sincere Buddhists should always remember to develop the mind to
be frightened and then try to guard our speech-karma:
1) Cùng
một lời nói mà khiến cho người trọn đời yêu mến mình; cũng cùng một lời
nói mà khiến cho người ghét hận, oán thù mình trọn kiếp: A saying can lead
people to love and respect you for the rest of your life; also a saying
can lead people to hate, despite, and become an enemy for an entire life.
2) Cùng
một lời nói mà khiến cho nên nhà nên cửa; cũng cùng một lời nói mà khiến
cho tán gia bại sản: A saying can lead to a prosperous and successful
life; also a saying can lead to the loss of all wealth and possessions.
3) Cùng
một lời nói mà khiến cho nên giang sơn sự nghiệp; cũng cùng một lời nói mà
khiến cho quốc phá gia vong: A saying can lead to a greatly enduring
nation; also a saying can lead to the loss and devastation of a nation.
(D) Theo Long
Thơ Tịnh Độ, cư sĩ Long Thơ nói—According to the Lung-Shu’s Pureland
Buddhism Commentary, lay follower Lung Shu said:
1) Thiện
khẩu nghiệp—Wholesome speech-karma:
a) Miệng
niệm Phật, như nhả châu ngọc; sẽ được cái quả báo sanh về cõi trời hay
nước Phật (khẩu tụng Phật danh, như thổ châu ngọc; Thiên đường, Phật quốc
chi báo). Các bậc Thánh Hiền xưa, lời nói ra như phun châu nhả ngọc, để
tiếng thơm muôn đời. Còn chúng ta ngày nay, nếu như không nói ra được các
lời tốt đẹp ấy, thà là làm thinh, quyết không nói những lời ác độc và vô
bổ: Mouth chanting Buddha Recitation is like excreting precious jewels and
gemstones and will have the consequence of being born in Heavens or the
Buddhas’ Purelands. The spoken words of saints, sages, and enlightened
beings of the past were like gems and jewels, leaving behind much love,
esteem, and respect from countless people for thousands of years into the
future. As for us nowadays, if we cannot speak words like jewels and gems,
then it is best to remain quiet, be determined not to toss out words that
are wicked and useless.
b) Miệng
nói ra việc lành như phun ra mùi hương thơm; sẽ được cùng tốt y như điều
mình khen nói cho người vậy (khẩu thuyết thiện sự, như phún thanh hương;
xứng nhơn trường đồng): Mouth speaking good and wholesomely is like
spraying exquisite fragrances and one will attain all that was said to
people.
c) Miệng
thốt ra lời giáo hóa, dạy dỗ cho người, như phóng ra ánh sáng đẹp đẽ, phá
trừ hết ngu si, tăm tối của tà ma ngoại đạo (khẩu tuyên lưu giáo hóa, như
phóng quang minh, phá nhơn mê ngữ): Mouth encouraging, teaching, and
aiding people is like emitting beautiful lights, destroying the false and
ignorant speech and dark minds of the devil and false cultivators.
d) Miệng
thốt ra lời thành thật, như lấy vải lụa quý mà trải ra; bố thí cho người
dùng qua cơn lạnh lẽo thiếu thốn (khẩu ngữ thành thật, như thơ bố bạch;
thiệt tế nhơn dụng): Mouth speaking of truths and honesty is like using
valuable velvets to give warmth to those who are cold.
2) Bất
thiện khẩu nghiệp—Unwholesome speech-karma:
a) Miệng
nói ra điều không đâu vô ích cho mình và cho người, như nhai mạc cưa, cây
gỗ; chi bằng làm thinh để tỉnh dưỡng tinh thần; nghĩa là khi không có điều
hay lẽ thật để nói, thì cách tốt nhất là đừng nên nói gì cả (khẩu đàm vô
ích, như tước mộc tiết; bất như mặc dỉ dưỡng khí): Mouth speaking without
benefits for self or others is like chewing on sawdust; it is so much
better to be quiet and save energy. It is to say if you don’t have
anything nice to say, it is best not to say anything at all.
b) Miệng
nói lời dối trá, khinh người, như lấy giấy đậy trên miệng giếng; hại kẻ đi
đường không thấy té xuống chết. Điều nầy cũng giống như giăng bẫy giết
người vậy (khẩu ngôn khi trá, như mông hảm tỉnh; hành tắc ngộ nhơn): Mouth
lying to ridicule others is like using paper as a cover for a well,
killing travelers who fall into the well because they were not aware. It
is similar to setting traps to hurt and murder others.
c) Miệng
nói lời trêu ghẹo, trửng giởn, như múa đao kiếm nơi kẻ chợ, thế nào cũng
cò người bị thương hay chết (khẩu háo hí ngược, như trạo đao kiếm; hữu
thời thương nhơn): Mouth joking and poking fun is like using swords and
daggers to wave in the market place, someone is bound to get hurt or die
as the result.
d) Miệng
nói lời ác độc, vô luân, như phun hơi thúi; sẽ chịu quả báo xấu ngang bằng
với lời mình đã nói cho người: Mouth speaking of wickedness, immorality,
and evil is like spitting foul odors and must endure evil consequences
equal to what was said.
e) Miệng
nói lời dơ dáy, bẩn thỉu, như phun ra dòi tửa; sẽ bị quả báo nơi tam đồ ác
đạo từ địa ngục, ngạ quỷ, đến súc sanh (khẩu đạo uế ngữ, như lưu thơ
trùng; địa ngục súc sanh chi đạo): Mouth speaking vulgarly, foully,
uncleanly is like spitting out worms and maggots and will face the
consequences of the three evil paths from hells, hungry ghosts to
animals.
Khẩu Nhẫn: Patience of the
mouth—Uttering no rebuke under insult or persecution—Một trong tam nhẫn.
Hai nhẫn kia là thân nhẫn và ý nhẫn—One of the three patiences. The other
two are patience of the body (thân nhẫn) and patience of the mind (ý
nhẫn).
Khẩu Phật Tâm Xà: Miệng thì nói
lời của Phật mà tâm lại là tâm của loài rắn độc—A Buddha’s mouth, but a
serpent’s heart—Good words but wicked heart.
Khẩu Tâm Như Nhứt: Sincere.
Khẩu Thị Tâm Phi: Insincere.
Khẩu Truyền: Oral transmission.
Khẩu Tứ: The four evils of the
mouth (lying, double tongue, ill words and exaggeration).
Khẩu Xà Tâm Phật: Barking dogs
seldom bite.
Khẩu Xưng: Invocation.
Khẩu Xưng Tam Muội: Tam muội
với tâm an tỉnh niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà hay bất cứ vị Phật nào—The
samadhi in which a quiet heart the individual repeats the name of Amitabha
or any Buddha—Samadhi attained by repetition of the name of a Buddha.
Khe Khắt:
Austere—Severe—Strict—Stern
Khen: To congratulate—To
compliment—To praise.
Khen Chê: Praise and Blame—Điều
tự nhiên là ta hãnh diện khi được khen và buồn phiền khi bị chê—It is
natural to be happy when praised and to be depressed when blamed.
(I) Ý
nghĩa của Khen và Chê—The meanings of Praise and Blame:
1)
Khen—Praise:
a) Khen
nếu đáng giá thì nghe rất bùi tai. Nếu không đáng giá, như trường hợp nịnh
bợ, tuy thích thú mà thực chất là lừa bịp. Tuy nhiên, chúng chỉ là những
vang vọng, không tạo ảnh hưởng gì nếu chúng không đến tai chúng ta:Praise,
if worthy, is pleasing to the ears. If unworthy, as in the case of
flattery, though pleasing, it is deceptive. However, they all are sounds
which will produce no effect if they do not reach our ears.
·
Từ quan điểm trần thế, lời khen có thể đem lại đặc ân đặc
lợi hay đặc quyền: From a worldly standpoint, a word of praise may bring
forth special grace, special benefit, or special authority.
·
Tuy nhiên, bậc đại trượng phu không cần đến nịnh bợ, và cũng
không mong muốn được người khác nịnh bợ. Cái gì đáng khen, họ khen, không
đố kỵ. Cái gì đáng trách, họ trách không khinh thường mà vì muốn sửa đổi
người: The wise man do not resort to flattery; nor do they wish to be
flattered by others. The praiseworthy, they praise without being envious.
The blameworthy, they blame not contemptuously but out of compassion with
the object of reforming others.
b) Tóm
lại, những gì đáng tán tụng nên tán tụng một cách nghiêm chỉnh—In summary,
the praiseworthy, one should praise seriousnessly.
2)
Chê—Blame:
a) Đa
phần phàm phu chỉ chực tìm cái xấu mà không bao giờ tìm cái tốt và cái đẹp
của người khác: Most of ordinary people are prone to seek the ugliness in
others but not the good and beautiful.
b) Đức
Phật dạy: “Người nói nhiều bị chê, người nói ít bị chê, người im lặng cũng
bị chê. Trong thế giới nầy không ai là người không bị chê.” Trên thế gian
nầy, trừ Đức Phật ra, không có ai hoàn toàn tốt, mà cũng không ai hoàn
toàn xấu—The Buddha says: “Those who speak much are blamed, those who
speak little are blamed, and those who are silent are also blamed. In this
world there is none who is not blamed.” In this world, except the Buddha,
nobody is perfectly good and nobody is totally bad.
c) Chê
dường như là một di sản của con người, vì con người ta có thể phục vụ và
tận tình giúp đở người khác bằng tất cả tấm lòng; tuy nhiên những người
được giúp đở chẳng những lại quay sang tìm lỗi của người đã từng mang công
lãnh nợ để cứu giúp mình, mà còn vui mừng trước sự suy sụp của người ấy.
Một lần Đức Phật được một vị Bà La Môn mời đến nhà để cúng dường. Khi Đức
Phật đến, thay vì làm cho Ngài vui, hắn đã thóa mạ Đức Phật bằng những lời
hết sức thô tục. Đức Phật hỏi: “Này ông Bà La Môn, có phải khách đến thăm
nhà ông không?” Người Bà La Môn trả lời: “Phải.” Đức Phật nói: “Ông làm gì
khi khách đến?” Người Bà La Môn nói: “Ồ! Tôi sửa soạn một bữa tiệc thịnh
soạn.” Đức Phật lại hỏi: “Nhưng nếu khách không ăn được thì ông phải làm
sao với những thực vật ấy?” Người Bà La Môn đáp: “Thì chúng tôi phải vui
vẻ chia nhau ăn.” Đức Phật nói: “Tốt! Này ông bạn Bà La Môn, ông mời ta
đến đây để cúng dường mà ông lại đối xử với ta bằng những lời thóa mạ. Ta
không nhận chút nào cả. Làm ơn nhận lại.” Qua câu chuyện trên, chúng ta
thấy Đức Phật từ bi, không trả thù trả oán. Ngài khuyến khích: “Hận thù
không thể chấm dứt được hận thù mà chỉ có tình thương mới chấm dứt được
hận thù.”—Blame seems to be a universal legacy of people, for one may
serve and help others to the best of one’s ability; however latter, those
very persons whom one has helped will not only find fault with him who
once incurred debts or sold property to save them; but they will also
rejoice in his downfall. On one occasion, the Budha was invited by a
brahmin to his house for alms. When the Buddha arrived at his house,
instead of entertaining the Buddha, he poured a torrent of abuse with the
filthiest words. The Buddha politely inquired, “Do visitors come to your
house, good Brahmin?” The brahmin said: “Yes.” The Buddha asked: “What do
you do when the visitors come?” The brahmin replied: “Oh, we prepare a
sumptuous feast.” If they don’t eat the food you serve, then what would
you do?” The brahmin said: “We gladly partake of it.” The Buddha then
said: “Well, good Brahmin, you have invited me for alms and you have
entertained me with abuse. I accept nothing. Please take it back.” Through
this story, we see that the Buddha did not retaliate. The Buddha exhorts:
“Hatreds do not cease through hatreds but through love alone they
cease.”
d) Trong
lịch sử, không có một vị đạo sư nào được hết sức khen ngợi mà cũng bị kịch
liệt công kích, chửi rủa và chê trách như Đức Phật. Khi Đức Phật đến một
xóm Bà La Môn để hóa duyên khất thực, Ngài đã bị buộc tội giết một phụ nữ
với sự giúp đở của các đệ tử của Ngài. Những người không phải là Phật tử
tố cáo và công kích Ngài đến nỗi ngài A Nan phải thưa với Phật là nên dời
đi làng khác. Nhân đó, Đức Phật bảo A Nan: “Này A Nan! Nếu những người dân
làng ấy cũng ngược đãi chúng ta thì sao?” Ông A Nan đáp: “Thưa Thế Tôn,
thì chúng ta lại di chuyển tới một làng khác nữa.” Đức Phật bèn nhắc ngài
A Nan: “Này A Nan! Nếu cứ làm như vậy thì tất cả xứ Ấn Độ này cũng không
có chỗ cho chúng ta dung thân. Hãy kiên nhẫn. Những ngược đãi, chửi mắng
đó sẽ tự động chấm dứt.”—In history, there was no teacher so highly
praised as the Buddha and so severely criticized, reviled and blamed as
the Buddha. When the Buddha arrived at a Brahman village to beg for alms,
non-Buddhists accused the Buddha and his disciples of murdering a woman,
and they criticized the Buddha to such an extent that the Venerable Ananda
appealed to the Buddha to leave for another village. The Buddha said:
“How, Ananda, if those villagers also abuse us?” Ananda replied: “Well
then, Lord, we will proceed to another village.” The Buddha then reminded
Ananda: “Then, Ananda, the whole of India will have no place for us. Be
patient. These abuses will automatically cease.”
e) Đức
Phật dạy: “Người tự giữ được im lặng trước những lời tấn công chửi bới và
lạm dụng, người đó đang ở ngay tại Niết Bàn dù rằng chưa đạt đượt Niết Bàn
thực sư.”—The Buddha says: “He who can keep silent himself when attacked,
insulted and abused, he is in the presence of Nirvana although he has not
yet attained Nirvana.”
Khen Ngợi: See Khen.
Khen Tịnh Yếm Thiền: Khen Tịnh
Độ chê Thiền tông (đây là thái độ của người chấp vào chỉ một pháp môn)—To
praise the Pure Land, but degenerate Zen (this is the attitude of someone
who is so attached to one dharma-door or method).
Khéo: Skilful—Skilled.
Khéo Léo: See Khéo.
Khéo Nói: Good talker.
Khép: To close.
Khép Tội: To charge someone
with a crime.
Khế: Khế ước hay sự đồng ý—To
agree with.
Khế Hội: To meet—To rally to—To
unite in the right or middle path, and not in either extreme.
Khế Kinh: Kinh văn khế hợp với
căn cơ của con người, với cái lý của pháp (các khế kinh mà Phật thuyết hợp
với căn cơ của mọi hạng người, được ngài A Nan nhớ và trùng tuyên lại
trong lần kết tập kinh điển đầu tiên)—The sutras, because they tally with
the mind of men and the laws of nature.
Khế Ngộ: Spiritual
connection—Trạng thái tu hành cao trong đó hành giả cảm ứng đạo giao với
chư Phật và chư Bồ Tát và ngộ được chơn tâm của mình—A high state of
cultivation in which a cultivator is able to establish a special
connection with the Buddhas and Bodhisattvas, and to realize own True
Nature (which is the Buddha Nature all sentient beings possess).
Khế Phạm: The covenants and
rules, or standard contracts. , i.e. the sutras—See Khế Kinh.
Khế Tuyến: See Khế Kinh.
Khệ Nệ: To struggle with a
heavy thing.
Khi Cõi Hư Không Hết Thì Nguyện Tôi Hết:
Đây là lời nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát—Samantabhadra Bodhisattva vowed:
“When the realm of empty space is exhausted, my vow will be exhausted.”
Khi Dễ: To despite (scorn)
someone.
Khi Mạn: To scorn—To contemn—To
despite.
Khi Sướng Lúc Khổ: Happiness
and siffering.
Khi Vui Lúc Buồn: Joy and
sadness.
Khí: Khí cụ—A
vessel—Utensil—Tool.
Khí Giới:
1) Vũ
Khí: Weapon.
2) Thế
giới:
·
Quốc độ là khí vật thế gian chứa đựng chúng sanh—The world
as a vessel containing countries and peoples.
·
Thế giới vật chất—The material world.
·
Vạn hữu giới—A realm of things.
Khí Giới Thuyết: Như Lai dùng
thần lực bất khả tư nghì có thể thuyết pháp cho ngay cả thế giới của loài
cây cỏ nghe được diệu pháp (cây Bồ Đề làm Phật sự quan biểu tượng giác
ngộ)—The supernatural power of the Buddha to make the material realm
(trees and the like) proclaim his truth (Bodhi-tree has been doing Buddha
work by showing to all beings as a symbol of enlightenment).
Khí Lượng: Khả năng chứa
đựng—Capacity.
Khí Thế Gian: See Khí Giới (2).
Khí Thế Giới: See Khí Giới (2).
Khía Cạnh: Aspect.
Khía Cạnh Quan Trọng: Important
aspects.
Khích: Kẻ nứt—A crack.
Khích Bác: To find fault
with—To criticize.
Khích Du Trần: Còn gọi là Nhật
Quang Trần, hay là bụi trần bay trong không trung, mắt trần có thể nhìn
thấy được khi có tia nắng chiếu vào—Motes in a sunbeam—A minute particle,
visible to the physical eyes under the sunlight.
Khích Khí La: Khakkhara
(skt)—Cây tích trượng của nhà sư—A mendicant’s staff; a monk’s staff.
Khích Lệ: To encourage—To
stimulate—To incite—To excite.
Khiêm Cung: Modest and
Respectful.
Khiêm Nhã: Humble and
courteous.
Khiêm Tốn:
Humble—Modest—Unpresumptuous—Humility—Khiêm tốn là một trong những cửa ngõ
quan trọng đi vào đại giác, vì nhờ đó mà những cao ngạo cũng như các tật
xấu khác đều biến mất—Humility is one of the most important entrances to
the great enlightenment; for with it, haughtiness and all other vicious
ill will disappear.
Khiếm:
1) Thiếu
nợ: To owe.
2) Nợ:
Debt.
Khiếm Diện: Absent.
Khiếm Khuyết:
Insufficient—deficient.
Khiếm Nhã:
Uncivil—Discourteous—Rude—Impolite—Immodest.
Khiên:
1) Ảnh
hưởng: To influence—To implicate.
2) Kéo
đi—To drag—To haul.
Khiên Dẫn Nhân: Sarvatraga-hetu
(skt)—Nhân ảnh hưởng tất cả mọi hành động, như tà kiến—Omnipresent causes,
like false views which affect every act.
Khiển: Điều khiển hay sai
khiển—To send, or to drive away.
Khiển Hoán: Vẫy chào (Đức Phật
A Di Đà vẫy chào Đức Thích Ca Mâu Ni khi ngài từ cõi Ta Bà cỡi thuyền
nguyện đi đến cõi Cực Lạc)—To send and to call (talk of Amitabha Buddha’s
welcome of Sakyamuni Buddha in the Pure Land).
Khiển Trách: To blame—To
reproach—To reprimand—To scold—To rebuke
Khiếp Nhược: Cowardice.
Khiếp Sợ: To be frightened—To
be afraid.
Khiết: Tinh khiết—Pure—Clean.
Khiết Trai: Thanh tịnh bằng
cách dứt bỏ ruợu thịt—To purify a monastery—To cleanse away all
immortality and impropriety—A pure establishment.
Khiêu Khích: To provoke
Khiếu: To call—To cry.
Khiếu Hoán: Raurava (skt).
1) La
khóc: To cry—To wail.
2) Khiếu
Hoán Địa ngục: Lâm Cát—Đề Khốc Khiếu Hoán—Địa ngục thứ tư và thứ năm (đại
khiếu hoán) trong bát nhiệt địa ngục, nơi tội nhơn bị cực khổ không chịu
được nên kêu gào khóc lóc—The wailing hells, the fourth and the fifth of
the eight hot hells, where the inmates cry aloud on account of pain.
Khiếu Nại: To complain.
Khinh:
1) Khinh
rẻ: To disdain—To scorn—To despite—To slight.
2) Nhẹ:
Light.
Khinh An: Prasrabdhi-bodhyanga
(skt).
1) Khinh
an là một trong những cửa ngõ quan trọng đi vào đại giác, vì nhờ đó mà
hành vi của chúng ta dễ dàng được kiểm soát—Not oppressed—At
ease—Entrustment is one of the most important entrances to the great
enlightenment; for with it, conduct is at ease already managed.
2) Một
trong thất giác chi hay thất bồ đề phần: One of the seven limbs of
enlightenment, or bodhi-shares—For more information, please see Thất Bồ Đề
Phần (B) (4) in Vietnamese-English Section.
Khinh Bạc:
Thoughtless—Careless.
Khinh Bỉ: To despite—To
disdain—To scorn.
Khinh Chê: To disdain—To
scorn—To slander—To deprecate.
Khinh Khỉnh:
Disdainful—Scornful
Khinh Lờn: Disrespect and
over-familiarity.
Khinh Mạn: Xem rẻ người nào—To
slight—To look down—The pride of thinking lightly of others.
Khinh Mao: Các vị Bồ Tát ở
trong Thập Địa được ví nhẹ như chiếc lông. Các vị nầy trong Phật đạo lên
xuống trong các đường cứu độ chúng sanh không cố định—As light as a hair,
as unstable as a feather (talk of Bodhisattvas).
Khinh Miệt: To scorn—To
disdain—To despite—To slight.
Khinh Suất:
Unattentive—Thoughtless—Unthinking.
Khinh Thân: Khả năng bay
bỗng—Levitation.
Khinh Thường: To feel contempt
for—Contemptuous of something.
Khinh Trọng: Nhẹ và nặng—Light
and heavy.
Khoù: Difficult.
Khó Bảo: Disobedient
Khó Chịu:
Unendurable—Intolerable (conduct)—Insufferable (person)--Uncomfortable.
Khó Coi: Shaking.
Khó Dạy:
Disobedient—Undisciplined—Unmanageable.
Khó Hiểu:
Incomprehensible—Difficult to understand.
Khó Khăn: Difficulties.
Khó Khăn Trong Cuộc Đời: Life’s
problems.
Khó Lắm: Very difficult.
Khó Lòng: See Khó.
Khó Nghe: Difficult to hear.
Khó Nhọc: Hard—Laborious.
Khó Tả Nên Lời: It is difficult
to express in words.
Khó Tánh: Hard to please.
Khó Thể Nhập: Dup-pativijjho
(p)—Difficult to penetrate.
Khó Tin: Difficult to believe.
Khoù
Xử: To be in a dilemma.
Khoa:
1) Bước
ngang qua: To straddle—To Bestride—To pass over.
2) Khoa
thi: An examination.
3) Khoa
trương: To boast about.
4) Lớp
học, bài học, hay cuộc thi—A class, a lesson.
Khoa Đại: Khoa trương—To
brag—To boast about oneself—To show off.
Khoa Nghi: Phép tắc
của văn kinh (kinh văn được sắp đặt theo một thể loại nào đó cho dễ đọc và
dễ thâm nhập)—The rule of the lesson to make it easier for the readers (to
understand).
Khoa Tiết: Danh mục do tông
Thiên Thai thành lập, căn cứ theo ý của Kinh Pháp Hoa mà định các ý trong
các kinh khác—To interpret one sutra by another a T’ien-T’ai term, e.g.
interpreting all other sutras in the ligh of the Lotus sutra.
Khoa Văn: Phân chia một quyển
sách hay một bài học thành đoạn (Ngài Đạo An đời Tần đã áp dụng sự phân
chia nầy vào kinh điển)—A set portion of a book, a lesson (started from
T’ao-An).
Khoác Lác: To brag—To boast
about.
Khoái:
1) Vui
sướng: Glad—Joyful.
2) Nhanh
chóng: Quick.
Khoái Cảm: Pleasant feeling.
Khoái Khẩu: Pleasant to taste.
Khoái Lạc:
Pleasure—Delight—Glad—Joyful.
Khoái Lạc Nhục Dục: Sensual
delight
Khoái Lạc Vương: Sudhira, the
quick-eyed king, highly intelligent, who could see through a wall 40 miles
away, yet who took out his eyes to give alms.
Khoái Mục Vương: Sudhira
(skt)—Vị vua có cặp mắt lanh lợi, thật thông minh, có thể nhìn thấu tường
cách xa 40 dậm dù đã móc mắt ra bố thí—The quick-eyed king, or highly
intelligent, who could see through a wall of 40 miles away, yet who took
out his eyes to give as alms.
Khoái Tâm: Pleased—Content.
Khoái Ý: Satisfied.
Khoan Dung: To
tolerate—Tolerance (n)
Khoan Thai: Slowly.
Khoản Đãi: To entertain.
Khoáng:
1) Khoáng
chất: Minerals.
2) Khoáng
dã: Wilderness—Wild—Prairie.
3) Khoáng
đãng: Vast—Immense—Spacious—Extensive.
4) Lâu xa
hay rất dài: Far—Long—Wide.
Khoáng Dã: See Khoáng (2).
Khoáng Đãng: See Khoáng (3).
Khoáng Kiếp: Nhấn mạnh về độ
dài của một kiếp lâu xa về quá khứ (nhấn mạnh về độ dài của một kiếp lâu
xa về tương lai thì gọi là “vĩnh kiếp”)—A past kalpa; the part of a kalpa
that is past.
Khoảnh Khắc Của Sự Sống: An
instance of life—Theo Tăng sĩ người Đức Nyanatiloka kể lại lời của
Visuddhi-Magga như sau: “Các thực thể chỉ có một khoảnh khắc rất ngắn để
sống, ngang với thời gian của một tia chớp. Khi thời gian đó kết thúc thì
thực thể ấy tiêu tan. Thế là thực thể của quá khứ đã chết, không còn đang
sống và cũng không sống lại được trong hiện tại hay tương lai. Thực thể
trong hiện tại không sống trong quá khứ, nó đang sống trong khoảng khắc
hiện tại, nhưng cũng không sống trong tương lai không sống trong quá khứ
hay hiện tại, nó chỉ sống về sau nầy. Một thực thể trong tương lai—A
German monk named Nyanatiloka, reiterated the momentariness of existence
from Asuddhi-Magga as follows: “All beings have only a very short instant
to live, only so long as a moment of a slash of a lightning. When this is
extinguished, the being is also extinguished. The beings of the last
moment is now no longer living, and does not live now or will not live
again later. The being of the present moment did not live previously,
lives just now, but later will not live any more. The being of the future
has not lived yet in the past, does not yet lived now, and will only live
later.”
Khoát:
1) Mở ra:
To open.
2) Phóng
khoáng (người): Well-off—Liberal.
3) Rộng
rãi: Broad—Wide—Spacious.
4) Thông
minh: Intelligent.
Khoát Tất Đa: Khusta (skt)—Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Khoát Tất Đa là một khu vực thuộc
vương quốc cổ Tukhara, có lẽ bây giờ là miền nam của Talikhan. Tuy nhiên,
Khoát Tất Đa cũng có thể là vùng Khost ở A Phú Hãn, thuộc tây nam
Peshawar—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist
Terms, Khusta, a district of ancient Tukhara, probably the region south of
Talikhan. However, it may be Khost in Afghanistan, south-west of Peshawar.
Khóc: To shed tears—To weep.
Khóc Than: Weeping and
lamenting.
Khóc Thầm: To cry in silence
Khoe Danh: To brag of one’s
honor
Khoe Tài: To brag of one’s
ability—To show off one’s ability
Khỏe Mạnh: Healthy
Khởi: Utpada (skt).
1) Khởi
hành: Bắt đầu—To start—To begin.
2) Khởi
lên: To rise—Uprising.
Khởi Chỉ Xứ: Nơi đại tiểu
tiện—A latrine—Cesspool.
Khởi Dậy: To rise.
Khởi Diệt: Rise and
extinction—Birth and death—Beginning and end.
Khởi Giả: Người khởi lên suy
nghĩ rằng tự mình khởi lên tội phúc (đây là một trong những ngã kiến)—One
who begins, or starts; one who thinks he creates his own welfare or
otherwise.
Khởi Hành: Bắt đầu cuộc sống
sắp tới (nghĩa là bắt đầu tu tập tạo thiện nghiệp cho đời sau)—To start
out for the life to come.
Khởi Lên:
·
Khởi lên: Samutthahati (p)—To rise up.
·
Sự khởi lên: Samutthanam (p)—Rising.
Khởi Niệm Tà Kiến: To develop a
perverse thought.
Khởi Tận: Bắt đầu và chấm
dứt—Beginning and end.
Khởi Thi Quỷ: Quỷ nhập tràng,
tên một loài quỷ khi đọc chú Tỳ Đà La có khả năng dựng dậy thây ma mới
chết để làm hại hay giết chết người khác—To resurrect a corpse by
demonical influence and cause it to kill another person—To aise the newly
dead to slay an enemy.
Khởi Thỉnh: Thề sự thật, hay
đánh thức Thần Thánh hay Tam Bảo về chứng giám cho lời nói chân thực của
mình (tuy nhiên khởi thỉnh ở đây có nghĩa là “thề nguyền” bị cấm kỵ trong
đạo Phật)—To call on the gods or the Buddhas (as witness to the truth of
one’s statements).
Khởi Tín: Khởi lên niềm tin—The
uprise or awakening of faith.
Khởi Tín Luận:
Sraddhhopada-Sastra (skt)—Tên gọi tắt của sách Đại Thừa Khởi Tín Luận do
ngài Mã Minh Bồ Tát biên soạn. Có hai bản dịch sang Hoa ngữ, thứ nhất là
bản dịch của ngài Chân Đế vào năm 554 sau Tây Lịch, bản thứ hai do ngài
Thực Xoa Nan Đà dịch vào năm 700 sau Tây Lịch. Bản thứ nhất có lẽ được đại
chúng chấp nhận hơn vì Đại sư Trí Giả, vị tổ thứ tư của tông Thiên Thai
cũng là vị thơ ký cho ngài Chân Đế, và sau được ngài Pháp Tạng biên soạn
lời bình giải tiêu chuẩn, mặc dầu sau nầy chính ông đã giúp cho ngài Thực
Xoa Nan Đà dịch bản thứ nhì. Đại Thừa Khởi Tín Luận là tác phẩm nói về cực
lý của Đại Thừa, giúp cho người đọc nghe khởi lên trong lòng niềm tin chân
chính đối với giáo pháp Đại Thừa. Bộ sách nầy đã được ngài Teitaro Suzuki
dịch sang Anh ngữ vào năm 1900—Awakening of Faith, one of the earliest
remaining Mahayana texts and is attributed to Asvaghosa. Two translations
have been made, one by Paramartha in 554 A.D., another by Siksananda,
around 700 A.D. The first text is more generally accepted, as Chih-I, the
fourth patriarch of T’ien-T’ai was Paramarth’s amanuensis, and Fa’Tsang
made the standard commentary on it, though he had assisted Siksananda in
his translation. It gives the fundamental principles of Mahayana, and was
translated into English by Teitaro Suzuki in 1900, also by T. Richard.
Khởi Tín Luận Nghĩa Ký: Những
bài luận do ngài Pháp tạng tuyển chọn từ bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận vào
khoảng năm 700 sau Tây Lịch—Selections of essays on The Awakening of
Faith, composed by Fa-Tsang, around 700 A.D.
Khởi Tín Nhị Môn: Bộ Đại Thừa
Khởi Tín Luận thuyết minh cái tâm của chúng sanh thì chia ra “tâm chân như
môn” và “tâm sinh diệt môn.” Thuyết minh về bản thể nói về tâm chân như,
thuyết minh về sinh diệt nói về hiện tượng của tâm chúng sanh—Two
characteristics of mind in the Sraddhopada-sastra, as eternal and
phenomena.
Khởi Tử Nhân: See Khởi Thi Quỷ.
Khô: Decay—Wither.
Khô Mộc:
1) Cây
khô: Withered timber, decayed, dried-up trees.
2) Ám chỉ
một số nhà tu khổ hạnh Phật giáo, chỉ ngồi thiền, chớ không bao giờ nằm,
nên người ta gọi là “thạch sương khô mộc chúng”—Applied to a class of
ascetic Buddhists, who sat in meditation, never lying down, like petrified
rocks and withered stumps.
Khô Mộc Đường: Phòng thiền của
những nhà sư chẳng bao giờ nằm—The hall in which “never-lying down”
ascetic Buddhists sat in meditation.
Khô Mộc Thiền: See Khô Mộc (2).
Khố: Kho—Treasury—Storehouse.
Khố Luân: Khố Luân là một trung
tâm Lạt Ma Giáo tại Mông Cổ, một thành phố thiêng liêng (cách Trường Thành
chừng 600 dậm về phía bắc bên bờ sông Thổ Lạp. Dân cư tại đây khoảng
30.000 mà hơn phân nửa là tín đồ của Lạt Ma Giáo. Tại đây có một tòa Phật
Đường rất nguy nga tráng lệ. Vùng nầy được xếp hàng thứ nhì sau Lahsa ở
Tây Tạng)—K’urun, Urga, the Lamaistic centre in Mongolia, the sacred city.
Khổ: Duhkha (skt)—Đậu Khư—Nạp
Khư—Nhạ Khư—Trạng thái khổ não bức bách thân tâm (tâm duyên vào đối tượng
vừa ý thì cảm thấy vui, duyên vào đối tượng không vừa ý thì cảm thấy khổ).
Đức Phật dạy khổ nằm trong nhân, khổ nằm trong quả, khổ bao trùm cả thời
gian, khổ bao trùm cả không gian, và khổ chi phối cả phàm lẫn Thánh, nghĩa
là khổ ở khắp nơi
nơi—Bitterness—Unhappiness—Suffering—Pain—Distress—Misery—Difficulty. The
Buddha teaches that suffering is everywhere, suffering is already enclosed
in the cause, suffering from the effect, suffering throughout time,
suffering pervades space, and suffering governs both philistine and saint.
1) Khổ
nằm trong nhân—Suffering is already enclosed in the cause: Bồ Tát sợ nhân
chúng sanh sợ quả, nghĩa là chúng sanh vì mê mờ nên chỉ khi nào quả khổ
tới mới lo sợ, khi đang gây nhân khổ thì lại không nhận thấy, mà vẫn cứ
thản nhiên như không, nhiều khi lại cho là vui sướng—It is said that the
Bodhisattva fears the cause while the philistine fears the effect. In
fact, human beings do not care about the cause when doing what they want.
They only fear when they have to suffer from their wrong-doings.
2) Khổ
nằm trong quả—Suffering from the effect: Gây nhân nào gặt quả nấy, đó là
định luật tự nhiên, thế nhưng trên đời có ít người công nhận như vậy,
ngược lại còn than trời trách đất cho những bất hạnh của họ—We always reap
what we have sown. This is a natural law, but some people do not know it;
instead they blame God or deities for their misfortune.
3) Khổ
bao trùm cả thời gian—Suffering throughout time: Từ vô thỉ đến nay, cái
khổ của chúng sanh chưa bao giờ dứt, đây là một phần của định luật nhân
quả luân hồi (cứ nhân tạo quả, rồi trong quả có nhân, cứ thế mãi không bao
giờ ngừng nghỉ)—Humankind has suffered from time immemorial till now,
because suffering never ceases; it is part of the law of causality.
4) Khổ
bao trùm cả không gian—Suffering throughout space: Ở đâu có vô minhthì ở
đó có khổ. Vô minh khônh những chỉ bao trùm trong thế giới nầy mà nó còn
trùm khắp vô lượng thế giới—Suffering goes together with ignorance. Since
ignorance is everywhere, in this world as well as in the innumerable other
worlds, sufering also follows it.
5) Khổ
chi phối cả phàm lẫn Thánh—Suffering governs both philistine and saint:
Chúng sanh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la phải khổ sở vô cùng.
Loài người bị tham sân si chi phối cũng bị lặn ngụp trong biển khổ. Chư
Thiên cũng không tránh được khổ vì ngũ suy tướng hiện. Cho đến các hàng
Thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, Thanh Văn, Duyên Giác, vân vân, vì
còn mê pháp, nên không tránh khỏi nỗi khổ biến dịch sinh tử. Xem thế nỗi
khổ lớn lao vô cùng. Riêng chỉ các vị Bồ Tát nhờ lòng đại bi, thường ra
vào sinh tử, lấy pháp lục độ để cứu độ chúng sanh, mà vẫn ở trong Niết Bàn
tự tại—Those people who are damned in Hell, in the realm of the starved
ghosts, the animals, and Asura undergo all kinds of suffering. Human
beings driven by greed, anger, and ignorance are condemned to suffer.
Deities, when their bliss is over, suffer from their decay body. All
saints of Hinayana school, except the Arhats, including the Stream
Enterer, the Once-Returner, the Non-Returner who are still infatuated with
their so-called attainment, are subject to the suffering from the cycle of
birth and death. Only the Bodhisattvas are exempt from suffering since
they voluntarily engage themselves in the cycle in order to save people
with their six Noble Paramita Saving Devices (see Lục Độ Ba La Mật).
** For more information,
please see Nhị Khổ,
Tam Khổ, Tứ Khổ,
Ngũ Khổ và Bát Khổ.
Khổ Ách: The obstruction caused
by pain, or suffering.
Khổ Ấm: Khổ Uẩn—Thân tâm của
chúng hữu tình là sự tập hợp của ngũ uẩn—The body with its five skandhas.
Khổ Bổn: Tham dục là gốc rễ của
khổ đau—The root of misery, i.e. desire.
Khổ Bảnh: Miserable situation.
Khổ Căn: See Khổ Bổn.
Khổ Chủ: Victim—Sufferer.
Khổ Công: To take great
pains—Hard work.
Khổ Cực: Hardship—Miserable.
Khổ Dư: Một trong tam dư. Người
theo nhị thừa, đã ra khỏi sanh tử trong ba cõi, nhưng còn nỗi khổ sinh tử
biến dịch—The remains of suffering awaiting the Hinayana disciple who
escapes suffering in this world, but still meet it in succeeding world,
one of the three after-death remainders.
** For more information,
please see Tam Dư.
Khổ Đạo: Từ khổ đạo phiền não
khởi lên, từ phiền não nghiệp khởi lên, từ nghiệp khởi lên đau khổ, cứ thế
chuyển vần trong vòng xấu xa—The resultant path of suffering—The path of
suffering; from illusion arises karma, from karma suffering, from
suffering illusion, in a vicious circle.
Khổ Đau: Duhkha—Suffering
(n)—Unhappy—Wretched—Miserable—Hardship (n)—Sorrow.
Khổ Đau Không Chịu Nổi:
Unbearable suffering
Khổ Đau Không Dứt: Incessant
suffering.
Khổ Đau Mãi Mãi: Eternal
damnation
Khổ Đế: The truth of suffering.
** For more information,
please see Tứ Diệu
Đế (1) and Tứ Thánh
Đế (1).
Khổ Hà: Nỗi khổ sở sâu như
sông—Misery deep as a river.
Khổ Hải: Biển khổ vô biên—The
ocean of misery, or sea of troubles, its limitlessness. Great sea of
suffering—The great bitter sea—Bitter sea of mortality.
Khổ Hành:
1)
Undergoing difficulties.
2)
Asceticism—To lead an austere life.
Khổ Hạnh: Duskara-carya (skt).
(I) Nghĩa
của Khổ Hạnh—The meanings of Duskara-carya: Chịu đựng những khổ hạnh hay
hành xác (ngoại đạo tu khổ hạnh để cầu sanh Thiên, đạo Phật gọi khổ hạnh
là “Đầu Đà”)—Ascetic practices—Undergoing difficulties, hardships, or
sufferings, i.e. burning, tormenting; hence religious austerity,
mortification.
(II) Lời Phật
dạy về Khổ Hạnh trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Ascetic
practices in the Dharmapada Sutra:
·
Chẳng phải đi chân không, chẳng phải để tóc xù (bờm), chẳng
phải xoa tro đất vào mình, chẳng phải tuyệt thực, chẳng nằm trên đất,
chẳng phải để thân mình nhớp nhúa, cũng chẳng phải ngồi xổm mà người ta có
thể trở nên thanh tịnh, nếu không dứt trừ nghi hoặc—Neither walking bare
footed, nor matted locks, nor dirt, nor fasting, nor lying on the bare
ground, nor dust, nor squatting on the heels, can purify a mortal who has
not overcome his doubts (Dharmapada 141).
Khổ Hạnh Lâm: Uruvilva
(skt)—Rừng khổ hạnh, nơi Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni cùng các người khác thực
hành khổ hạnh trước khi Phật thành chánh giác, vì vậy rừng nầy có tên là
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp—Papaya forest—The place near Gaya where Kasyapa,
Sakyamuni and others practised their austerities before the latter’s
enlightenment, hence the former is styled Uruvilva Kasyapa.
Khổ Khổ: Duhkha-duhkhata
(skt)—Một trong tam khổ, nỗi khổ sinh ra nơi thân tâm chúng sanh do đói
khát, bệnh tật, mưa gió, và những hạnh hạ khác—The pain or painfulness of
pain—Pain produced by misery or pain—Suffering arising from external
circumstances (famine, storm, sickness, torture), one of the three kinds
of sufferings.
** For more information,
please see Tam Khổ.
Khổ Không: Hai trong Tứ Hành
Tướng—Misery and unreality, or pain and emptiness, two of the four
disciplinary processes—See Tứ Hành Tướng (1) (2).
Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã:
Suffering, Emptiness, Impermanence, No-self.
Khổ Lạc: Khổ đau và Hạnh
phúc—Bình thường chúng ta chào đón hạnh phúc, nhưng không vui vẻ với sự
khổ đau phiền não—Usualy we welcome happiness, but not sorrow.
1)
Khổ—Sorrow: Dukha (skt)—Cái gì mang lại khó khăn là đau khổ. Khổ đau hay
phiền não đến trong nhiều lốt vỏ khác nhau—What is difficult to bear is
sorrow. Sorrow or suffering comes in different guises—See Bát Khổ.
2)
Lạc—Happiness: Sukkha (skt)—Cái gì mang lại thoải mái là hạnh phúc—What
can be borne with ease is happiness—See Hạnh Phúc.
Khổ Loại Trí:
Duhkhe-nvaya-jnanam (skt)—Một trong tám trí, vô lậu trí hay chân trí sáng
suốt do quán “khổ đế” mà đắc được (thoát khỏi khổ đau phiền não trong luân
hồi sanh tử) trong các cõi (dục, sắc và vô sắc)—The wisdom which releases
from suffering in all worlds, one of the eight forms of understanding.
Khổ Loại Trí Nhẫn: Một trong
tám loại nhẫn khởi lên từ “khổ loại trí” quán. Khổ loại trí nhẫn là nhân,
khổ loại trí là quả—One of the eight forms of endurance arising out of
contemplation of “duhkhe-nvaya-jnanam.” The wisdom of endurance is the
cause, and Duhkhe-nvaya-jnanam is the fruit.
** For more information,
please see Bát Trí.
Khổ Luân: Khổ quả sanh tử luân
chuyển không ngừng, quay mãi như bánh xe—The wheel of suffering, i.e.
reincarnation.
Khổ Mệnh: Unhappy destiny.
Khổ Nạn: Calamity.
Khổ Não: Misery and
trouble—Distress.
Khổ Nghiệp: Nghiệp khổ đau—The
karma of suffering.
Khổ Ngôn: Lời khiển
trách—Bitter words—Words of rebuke.
Khổ Nhân: The cause of
suffering, or pain.
Khổ Nhọc Đắng Cay: Suffering
and vagaries of life.
Khổ Nhục: Severe bodily pain.
Khổ Pháp Trí: Một trong Bát
Trí, do quán khổ đế ở cõi dục giới mà phát sanh trí huệ sáng suốt, chặt
đứt mê hoặc—The knowledge of the law of suffering and the way of release,
one of the eight forms of understanding.
** For more information,
please see Bát Trí.
Khổ Phược: Hệ lụy của khổ
đau—The bond of suffering.
Khổ Quả: Quả báo do ác nghiệp
sinh ra làm cho thân tâm khổ (chủ yếu là do tiền kiếp để lại)—The physical
and mental suffering resulting from evil conduct (chiefly in previous
existences).
Khổ Sai: Hard labored.
Khổ Sở: Miserable—Affliction
Khổ Tâm: Broken-hearted.
Khổ Tân: Bến khổ cần phải vượt
qua để đến bên bờ giác ngộ—The deep ford or flood of misery which must be
crossed in order to reach enlightenment.
Khổ Tập: Samudaya (skt)—Huân
tập khổ đau, đế thứ nhì trong Tứ Diệu Đế. Khổ đế càng tăng khi ham muốn
dục vọng tăng, đây lá nguyên nhân của luân hồi sanh tử—Arising, coming
together, collection, multitude. The second of the four axioms that of
“accumulation,” that misery is intensified by craving or desire and the
passions, which are the cause of reincarnation.
** For more information,
please see Tứ Thánh
Đế.
Khổ Tập Diệt Đạo: Bốn chân lý,
khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế—The four axioms of truths, i.e
suffering or pain: duhkha, accumulation of suffering: samudaya, The
extinguishing of suffering (pain) and reincarnation: nirodha, Extinction
of suffering: marga.
** For more information,
please see Tứ Thánh
Đế.
Khổ Tế: Dukkhssant (skt)—Giới
hạn cuối cùng của khổ là cửa vào Niết Bàn—The limit of suffering, i.e.
entrance to nirvana.
Khổ Thánh Đế:
Duhkha-arya-satyam (skt)—Cái khổ chỉ có các bậc Thánh mới liễu tri nên gọi
là Thánh Đế, một trong Tứ Thánh Đế—The dogma of suffering, the first of
the four dogmas.
** For more information,
please see Tứ Diệu
Đế (1) and Tứ Thánh
Đế (1).
Khổ Thay: What a great pity !
Khổ Tính: Theo Câu Xá Luận có
ba tánh khổ—According to the Kosa Sastra, there are three kinds of nature
of misery, or sorrowful spirit:
1) Khổ
Khổ Tánh: Dukkha as ordinary sufferings.
2) Hành
Khổ: Dukha as conditioned states.
3) Hoại
Khổ: Dukkha as produced by change.
** For more information,
please see Tam Khổ.
Khổ Trí: Một trong mười trí,
cái trí hiểu biết được cái lý của khổ đế—The knowledge or understanding of
the axiom of suffering, one of the ten forms of understanding.
** For more information,
please see Thập Trí.
Khổ Uẩn: Ngũ ấm thạnh suy
khổ—The bundle of suffering, i.e. the body as composed of the five
skandhas.
** For more information,
please see Bát Khổ
(8).
Khổ Về Tinh Thần: Mental
suffering.
Khổ Võng: Lưới khổ—The net of
suffering.
Khổ Vui: Suffering (bitter) and
fortunate.
Khổ Vực: Thế giới khổ, cõi Ta
bà hay bất cứ cõi nào còn luân hồi sanh tử là còn đầy dẫy khổ đau—The
region of misery (every realm of reincarnation).
Khốc: Tragic—Terrible.
Khốc Hại:
Calamitous—Disastrous.
Khốc Liệt:
Fierce—Violent—Raging.
Khôi:
1) Cừ
khôi—Gigantic—Monstrous.
2) Nửa
người nửa quỷ: Part man part devil.
Khôi Hài:
1)
Humorous—Comic.
2) To
joke—To jest.
Khôi Lỗi Tử: Thằng bù nhìn—A
puppet.
Khôi Ngô:
Handsome—Good-looking.
Khôi Phục: To reconquer—To
restore.
Khốn: Poor and miserable.
Khốn Cùng: Extremely poor.
Khốn Cực: Utterly miserable.
Khốn Đốn: To be in a very bad
situation.
Khốn Khổ: See Khốn cực.
Khốn Nạn: Miserable.
Khốn Nỗi: Unfortunately.
Không:
a) Không
dùng trong nghĩa phủ định: Makhada (p)—Do not—Not.
b) Không
có nghĩa là “Bất” hay “Phi,” thí dụ như Bất nhị, Phi không, vân vân: A (p
& skt)—Non, i.e., non-duality, non-empty, etc.
c) Không
có nghĩa là “Hư” hay “Vô,” thí dụ như Hư vân, Vô úy, vân vân: Nis, Nih,
Nir, or Ni (skt)—Im—Less, i.e., cloudless, fearless, etc.
d) Không
có thật: Non-existent.
e) Trống
không: Sunyata or Sunya (skt)—Bare—Bald—Naked—Empty—Void (absolute
non-existence)—Hollow.
f)
Không có thể tánh: Tất cả các sự vật trong tam giới đều không phải là
thật—Devoid of physical substance—The empty state (the state in which
reality is as it is)—The immaterial which is empty, or devoid of physical
substance (opposed to matter).
g) Sự
trống rỗng không có gì. Phật Giáo Đại Thừa thường được đồng nhất hóa với
triết học “Không Tánh,” điều nầy đúng về mặt nó phủ nhận cái lý thuyết về
bản thể mà các trường phái duy thực của Phật giáo chủ trương, nhưng chúng
ta phải nhớ rằng Đại Thừa có cái khía cạnh tích cực của nó luôn luôn kèm
theo với học thuyết Không Tánh của nó. Khía cạnh tích cực nầy gọi là học
thuyết như như hay như thị. Kinh Lăng Già luôn cẩn thận làm cân bằng Tánh
Không với Như Như, hay cẩn thận nhấn mạnh rằng khi thế giới được nhìn như
là “không,” thì nó được người ta nắm bắt về cái như như của nó. Dĩ nhiên
một học thuyết như thế nầy vượt qua cái nhìn luận lýđược đặt căn bản trên
sự nhận biết suy diễn vì nó thuộc phạm vi của trực giác mà theo thuật ngữ
của Kinh Lăng Già, nó là sự thể chứng cái trí tuệ tối thượng trong tâm
thức—Emptiness, void. Mahayana Buddhism is popularly identified with
Sunyata philosophy: that is right as far as it concerns the denial of
substance theory as held by the realistic schools of Buddhism, but we must
remember that the Mahayana has its positive side which always goes along
with its doctrine of Emptiness. The positive side is known as the doctrine
of Suchness or Thusness (Tathata). The Lankavatara Sutra is always careful
to balance Sunyata and Tathata, or to insist that when the world is viewed
as “sunya,” or empty, it is grasped in its suchness. Naturally, such a
doctrine as this goes beyond the logical survey based on our discursive
understanding as it belongs to the realm of intuition, which is, to use
the Lanka terminology, the realization of supreme wisdom in the inmost
consciousness.
h) Theo
Tam Luận Tông trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo của Giáo Sư Junjiro
Takakusu—According to Prof. Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist
Philosophy:
·
Không hiểu theo Tam Luận Tông—Sunyata in San-Lun Tsung: Về
mặt tiêu cực, ‘Sunya’ có nghĩa là ‘Không,’ nhưng về mặt tích cực nó có
nghĩa là ‘Duyên Sinh,’ hay viễn ly thực tại tự hữu, hay viễn ly tự tánh
như thế “Sunyata” là vô thể đồng thời là duyên sinh, nghĩa là pháp chỉ có
duyên khởi. Hình như quan niệm về duyên khởi nầy được truyền bá rất mạnh ở
Trung Quán Ấn Độ. Về phía Trung Hoa, Tam Luận Tông cũng vậy, chữ ‘Duyên
hội’ là đồng nghĩa với ‘Trung đạo,’ ‘vô tự tánh’ ‘pháp tự tánh’ và
‘Không.’ Duyên khởi cũng được gọi là ‘tánh không.’ Danh từ ‘Không’ không
hoàn toàn thích hợp và thường bị lầm lẫn, nhưng nếu chúng ta tìm một danh
từ khác, thì lại không có chữ nào đúng hơn. Rốt cuộc, không một ý niệm nào
được thiết lập bằng biện chứng pháp. Nó vô danh và vô tướng. Đó chỉ là sự
phủ định một thực tại tự hữu hay phủ định cá tính đặc hữu. Ngoài sự phủ
định, không có gì khác. Hệ thống Tam Luận Tông do đó là một phủ định luận,
lý thuyết về sự tiêu cực. Vạn hữu đều không có thực tại tính tự hữu, nghĩa
là chúng chỉ hiện hữu tương quan, hay tương quan tính theo nghĩa bất thực
trên cứu cánh, nhưng lại thực ở hiện tượng—‘Sunya’ negatively means
‘Void,’ but positively means ‘Relative,’ i.e., ‘devoid of independent
reality,’ or ‘devoid of specific character.’ Thus ‘Sunyata’ is non-entity
and at the same time ‘relativity,’ i.e., the entity only as in causal
relation. The idea of relativity seems to be strongly presented in the
Indian Madhyamika School. In the Chinese Madhyamika School, too, they have
the term 'causal union’ as a synonym of the Middle Path, absence of nature
(svabhava-abhava), dharma nature (dharma-svabhava) and void. It is well
known that the causal origination is called ‘Sunyata.’ The word ‘void’ is
not entirely fitting and is often misleading, yet, if we look for another
word, there will be none better. It is, after all, an idea dialectically
established. It is nameless (akhyati) and characterless (alaksana). It is
simply the negation of an independent reality or negation of specific
character. Besides the negation there is nothing else. The Madhyamika
system is on that account a negativism, the theory of negation. All things
are devoid of independent reality, that is, they are only of relative
existence, or relativity in the sense of what is ultimately unreal but
phenomenally real.
·
Không hiểu theo Hữu Bộ—Sunyata in Sarvastivadins: Học thuyết
Không không phải không tán thành lý duyên khởi vì hiện hữu ở tục đế thuộc
tổ hợp nhân quả, và nó cũng không loại bỏ nguyên lý luân hồi, vì cần phải
có nó để giải thích trạng thái biến hành sinh động. Chúng ta thấy rằng Hữu
Bộ công nhận cả ba giới hệ của thời gian đều thực hữu và tất cả các pháp
cũng thực hữu trong mọi khoảnh khắc—The doctrine of Void does not disavow
the theory of the Chain of Causation, for our worldly existence is of
causal combination, nor does it reject the principle of the stream of life
(samsara), for it is necessary to explain the state of dynamic becoming.
We have seen already that the Realistic School assumes that the three
worlds of time are real and so are all dharmas at any instant.
·
Không hiểu theo Thành Thật Tông—Sunyata in Satyasiddhi
school: Chống lại chủ trương nầy, Thành Thật luận chủ trương hư vô, thừa
nhận chỉ có hiện tại là thực hữu còn quá khứ và vị lai thì vô thể. Như tất
cả các tông phái Đại Thừa khác, tông nầy thứa nhận cái Không của tất cả
các pháp (sarva-dharma-sunyata), kể cả ngã không (pudgala-sunyata). Thêm
nữa, nó thừa nhận có hai chân lý: chân đế và tục đế. Đây là lý do chính
yếu khiến Thành Thật tông trong một thời gian dài được xem là thuộc Đại
Thừa ở Trung Hoa. (for more information, please see Tam Chấp Thủ, and Tứ
Cú, and Tam Học)—Against this assertion, the nihilisctic Satyasiddhi
School contends that the present only is real while the past and the
future have no entity. The school asserts, as all the other Mahayanistic
schools do, the Void of all elements (sarva-dharma-sunyata) as well as the
Void of self (pudgala-sunyata). In addition, it recognizes the two-fold
truth, the supreme truth and worldly truth. These are chiefly the reasons
for which this school had long been treated as Mahayana in China.
i) Theo
Hán văn, ‘Sunyata’ có nghĩa là ‘Không,’ nó bao hàm tất cả những giai đoạn
thiết yếu của ý nghĩa—The Chinese equivalent of ‘Sunyata’ is ‘K’ung,’
which connotes all the necessary phases of meaning:
·
Đản không hay thiên không: Void in the sense of antithesis
of being.
·
Vô tự tánh, tự tánh không, hay vô tự tướng: Svabhava-sunyata
(skt)—Void in the state of beign devoid of specific character.
·
Không trong ý nghĩa cao nhứt hay ‘không’ siêu việt:
Paramartha-sunyata (skt)—Void in the highest sense, or transcendental
void, i.e., all oppositions synthesized.
·
Thắng nghĩa ‘Không’: Atyanta-sunyata (skt)—Đệ nhứt nghĩa đế
‘không’—The absolute void.
Không Ai Muốn: Undesirable.
Không Ăn Sái Thời:
Vikala-bhojanad (virati)—Not to eat out of regulation hours.
Không Ăn Thịt:
Vikalabhojana—Not to eat meat (flesh)—Part of the sixth of the ten
commandments against eating flesh.
Không Bào Chữa Được: Not
justifiable
Không Bắt Kịp: Not to keep
abreast of
Không Bền Lâu: Impermanent (a)
—Impermanence (n)
Không Biến Xứ: See Không Nhứt
Thiết Xứ.
Không Cầu Phước Báo Nhân Thiên Mà Chỉ Cầu
Làm Phật: Not to seek human or deva bless, but to seek to
become a Buddha.
Không Chấp: See Không Hữu Nhị
Chấp.
Không Chấp Nhận: To fail to
take account
Không Chịu Đựng Được:
Unbearable—Unendurable.
Không Chóng Thì Chầy: Sooner or
later .
Không Có Quyền: To have no
right—We have no right to take what is not given: Chúng ta không có quyền
lấy cái không được cho.
Không Có Tạo Tác: Uncreated.
Không Cư Thiên: Antarisavasina
(skt)—Chư Thiên cư ngụ tầng trời trên không—Devas dwell in space—The
heavenly regions—Heavens in space, i.e. the devalokas and rupalokas.
Không Diễn Tả Quá Mức: Without
recourse to exaggeration
Không Dứt:
Endless—Ceaseless—Never-ending.
Không Đại: Space—Hư không, một
trong ngũ đại (đất, nước, lửa, gió, hư không)---One of the five elements
(earth, water, fire, wind, space).
Không Đáng: Unworthy.
Không Đâu: Not at all.
Không Đế: Một trong ba đế mà
tông Thiên Thai lập ra. Tất cả pháp thế gian, bất luận là hữu tình hay vô
tình, đều do nhân duyên sinh ra, tự thể không thực—The doctrine of
immateriality, one of the thre dogmas of T’ien-T’ai, that all things
animate and inanimate, seeing that they result from previous causes and
are without reality in themselves, are therefore or not material, but
spiritual.
Không Điểm: Điểm nằm trên chữ
“m” và “n” trong Phạn ngữ, biểu hiệu cho vạn vật trống không hay không
thật; được tông Chân Ngôn dùng với nhiều nghĩa—The dot over the “m” or “n”
in Sanskrit, symbolizing that all things are empty or unreal; used by the
Shingon sect with various meanings.
Không Điểu: Một loại chim kêu
“không-không,” ám chỉ người không biết diệu pháp mà lại nói huyên thuyên
về pháp—The bird that cries “kung-kung,” the cuckoo, i.e. one who, while
not knowing the wonderful law of true immateriality or spirituality, yet
prates about it.
Không Định: Sunnata-samadhi
(p)—Sunyata-samadhi (skt)—Thiền định quán không
tướng—Emptiness-samadhi—The meditation which dwells on the Void or the
Immaterial.
1) Không
Định Nội Đạo: See Tam Tam Muội.
2) Không
Định Ngoại Đạo: Giới hạn trong tứ không định—Limited to the four dhyanas,
except the illusion that things have a reality in themselves, as
individuals—See Tứ Vô Sắc Định.
Không Đo Lường Được:
Unmeasurable
Không Động: Nis-cale
(skt)—Motionless—Immovable.
Không Đủ Sức: Incompetent.
Không Đủ Tài: See Không Đủ Sức.
Không Được Người Tin: To be
disbelieved.
Không Giả Trung: Ba đế mà tông
Thiên Thai đã dựng lênHệ thống ‘Tam Quán’ nầy dựa trên triết lý của ngài
Long Thọ, người đã sống ở Đông Nam Ấn Độ vào thế kỷ thứ hai—Three prongs
established by the T’ien-T’ai sect. The system of threefold observation is
based on the philosophy of Nagarjuna, who lived in south-eastern India
about the second century A.D.
1) Không:
Không dĩ pháp nhất thiết pháp (không để phá cái hoặc kiến tư, nghĩa là phá
tất cả các pháp quán sát cái tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
giữa, tức là không có thật). ‘Không’ còn là sự phá bỏ ảo tưởng của cảm
quan và sự kiến tạo tri thức tối thượng (prajna)—Unreality, that things do
not exist in reality. Sunya (universality) annihilates all relatives. The
‘Empty’ mode destroys the illusion of sensuous perception and constructs
supreme knowledge (prajna).
2) Giả:
Giả dĩ lập nhất thiết pháp (Giả dùng để phá các hoặc trần sa và để lập tất
cả các pháp quán sát thấy cái tâm đó có đủ các pháp, các pháp đều do tâm
mà có, tức là giả tạm, không bền, vô thường). ‘Giả’ là sự chấm dứt những
lậu hoặc của trần thế và giải thoát khỏi các điều xấu—Reality, things
exist though in “derived” or “borrowed” form, consisting of elements
which are permanent. Particularity establishes all relativities. The
‘Hypothetical’ mode does away with the defilement of the world and
establishes salvation from all evils.
3) Trung:
Trung dĩ diệu nhất thiết pháp (Trung để phá cái hoặc vô minh và thấy được
sự huyền diệu tất cả các pháp, quán sát thấy cái tâm chẳng phải không
không, cũng chẳng phải giả tạm, vừa là không vừa là giả, tức là trung
Đạo). ‘Trung’ là sự phá bỏ ảo giác do vô minh mà ra và có được một đầu óc
giác ngộ—The “middle” doctrine of the Madhyamaka School, which denies both
positions in the interests of he transcendental, or absolute. The middle
path transcends and unites all relativities. The ‘Medial’ mode destroys
hallucination arising from ignorance (avidya) and establishes the
enlightened mind.
Không Giải: Sự giải thích về
tánh không—The interpretation or doctrine of ultimate reality.
Không Giải Thoát Môn: Một trong
ba giải thoát. Quán hết thảy các pháp đều do nhơn duyên hòa hợp mà sanh
ra, không có tự tính (nếu thành đạt như vậy là mình đang bước vào cổng
giải thoát)—The gate of salvation or deliverance by the realization of the
immaterial, i.e. that the ego and things are formed of elements and have
no reality in themselves; one of the three deliverances.
** For more information,
please see Tam Giải
Thoát.
Không Giáo: Tông phái cho rằng
vạn hữu vi không. Pháp Tướng Tông lập ra ba thời giáo—The teaching that
all is unreal—Teaching of unreality. The Dharmalaksana School divided
Buddha’s teaching into three periods:
1) Pháp
Hữu Giáo: Thời kỳ thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật, coi tất cả Tiểu Thừa
là thuyết pháp Hữu Giáo—The first period of the Buddha’s teaching; the
Hinayana period, teaching that things are real.
2) Pháp
Không Giáo: Thời kỳ thuyết pháp thứ nhì của Đức Phật; các bộ kinh Bát Nhã
là thuyết pháp Không giáo—The second period of the Buddha’s teaching, the
Prajna period, that things are unreal.
3) Trung
Đạo Giáo: Thời kỳ thuyết pháp thứ ba của Đức Phật, các kinh như Hoa Nghiêm
và Pháp Hoa huyết pháp Trung Đạo—The third period of the Buddha’s
teaching, the Hua-Yen and Lotus period of the middle or transcendental
doctrine.
Không Giết Hại: Not to
kill—Abstaining from killing.
Không Giới: Cõi hư không bao
trùm mọi vật, một trong sáu giới (đất, nướ, lửa, gió, hư không và
thức)—The realm of space—One of the six realms (earth, water, fire, wind,
space and knowledge).
Không Giới Sắc: Hư không có thể
nhìn thấy được qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý—The visible realm of
space, the sky, beyond which is real space.
Không Gò Bó: Spontaneously.
Không Hải:
1) Hư
không và biển cả—Space and ocean—Sky and sea.
2) Kukai
(jap)—Một vị đại sư nổi tiếng người Nhật, vị khai tổ tông Chân Ngôn Nhật
Bản, cùng thời nhà Đường bên Trung Quốc. Không một tu sĩ nào được biết đến
nhiều hoặc được tôn kính nhiều qua các thời đại ở Nhật Bản bằng Không Hải.
Ông còn nổi tiếng hơn nữa trong số những “Hoằng Pháp Đại Sư.” Là một tu sĩ
Chân Ngôn tông, ông đã hệ thống hóa chủ thuyết của tông phái nầy trong
cuốn Thập Trụ Tâm Luận, nói về mười bậc trên đường học đạo; và cuốn luận
khác nói về sự khác biệt giữa Phật giáo Mật tông và các tông phái khác.
Ngoài ra, sự đóng góp của ông cho nền văn hóa Nhật Bản trong các lãnh vực
nghệ thuật, giáo dục, và an sinh xã hội cũng thật là đáng kể: A famous
Japanese monk, the founder of the Japanese Shingon Sect, at the same time
with the T’ang dynasty in China. No other monk has been more popular than
Kukai among the Japanese nor regarded with greater respect throughout the
ages. He is even more famous among a group of people known as the “Kobo
Daishi.” As a monk of the Shingon sect he systematized the doctrine of his
sect by writing a treatise on the ten stages of the mind, a treatise on
the distinction between Tantric Buddhism and other sects. Besides, his
contribution to Japanese culture in the field of the arts, education, and
social welfare was considerable.
Không Hành: Thực hành phép quán
không, ngã không và pháp không, để đoạn tận phiền não—The discipline or
practice of the immaterial or infinite, thus overcoming the illusion that
the ego and all phenomena are realities.
Không Hoa: Khapuspa (skt).
1) Hoa
trong hư không: Flowers in space (the sky).
2) Hoa
đốm trước mắt hay trong hư không: Muscoe volitantes (l)—Spots before the
eyes, compared with flowers in the sky.
3) Ảo
tưởng: Illusion.
4) Hoa
Không Ngoại Đạo: Sunyapuspa (skt)—Đệ tử của ảo tưởng—Sky-flower heretics,
or followers of illusion.
5) Tiểu
Thừa Ấn Độ tự xưng là Đại Thừa: The Indian Hinayanists style Mahayanists.
Không Hoàn Toàn: Incompleteness
Không Hoạt Động Được: Inability
to function
Không Hối Tiếc: Without regret
Không Huệ: Wisdom which beholds
spiritual truth.
Không Hư: Nothingness.
Không Hư Dối: Nirmythia
(skt)—Unfalse.
Không Hữu:
1) Không
thật và thật: Unreal and real.
2) Không
hiện hữu và hiện hữu: Non-existent and existent.
3) Trừu
tượng và cụ thể: Abstract and concrete.
4) Phủ
nhận và thừa nhận: negative and positive.
5) Tà
kiến của kẻ không thừa nhận lý nghiệp quả và niết bàn: See Không Kiến.
Không Hữu Nhị Chấp: Mê tình của
phàm phu chấp không chấp có—The two false tenets or views.
1) Chấp
Không: Chấp rằng nghiệp và niết bàn là không thực—Beholding that karma and
nirvana are not real.
2) Chấp
Hữu: Chấp rằng có thực ngã và thực pháp—Beholding that the ego and
phenomena are real—See Nhị Chấp.
** Những tà chấp nầy có thể khắc phục được
bằng cách quán tánh không thực của ngã và pháp, cũng như quán thực tánh
của nghiệp và niết bàn—These wrong views are overcome by the meditating on
the unreality of the ego and phenomena, and the reality of karma and
nirvana (see Không Hữu Nhị Quán).
Không Hữu Nhị Quán: Để khai phá
hai tà chấp không hữu nên quán tánh không thực của “ngã” và “pháp.” Đồng
thời quán thực tánh của nghiệp và niết bàn—Meditating on the unreality of
the ego and phenomena, and the reality of karma and nirvana, which is used
to practice to overcome the false tenets or views of real and unreal.
Không Hữu Nhị Tông: Hai tông
“Không” và “Hữu”—The two schools of “Unreal” and “Real.”
(A) Tiểu Thừa
Không Hữu—The two schols in Hinayana:
1) Tiểu
Thừa Không Tông: Thành Thực Tông—Satyasiddhi Sect.
2) Tiểu
Thừa Hữu Tông: Câu Xá Tông—Kosa Sect.
(B) Đại Thừa
Không Hữu—The two schools in Mahayana:
1) Đại
Thừa Không Tông: Tam Luận Tông—Madhyamika School.
2) Đại
Thừa Hữu Tông: Pháp Tướng Tông—Dharmalaksana School.
Không Hý Luận: Avikarsa
(skt)—Not talking vainly or idly.
Không Kể Siết: Incalculable.
Không Khi Nào: Never.
Không Khởi: Anabhinirvritti
(skt)—Not rising.
Không Khổ Không Lạc: The tone
of indifference.
Không Không: Khi tất cả được
xem như ảo tưởng hay không thật, ý tưởng trừu tượng của không thật tự nó
bị triệt tiêu—Unreality of unreality. When all has been regarded as
illusion, or unreal, the abstract idea of unreality itself must be
destroyed.
Không Không Tịch Tịch: Mọi vật
trong vũ trụ, sắc hay vô sắc, là không thật—Void and silent (everything in
the universe, with form or without form, is unreal and not to be
considered as real.
Không Kiên Nhẫn: Akshanti
(skt)—Impatience.
Không Kiến: Tà kiến của kẻ
không thừa nhận lý nghiệp quả (nhân quả, tội phúc, luân hồi), và niết
bàn—The heterodox view that karma and nirvana are not real.
Không Kiếp: Không kiếp, một
trong bốn kiếp—The empty kalpa, one of the four kalpas.
** For more information,
please see Tứ Kiếp.
Không Kinh: Kinh nói về tánh
không, như Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa—The sutras of unreality or
immateriality, i.e. the Prajnaparamita.
Không Lời: Avaca
(skt)—Wordless.
Không Lợi Ích Thiết Thực: With
no practical benefit.
Không Lộ Thiền Sư: Zen Master
Không Lộ (?-1119)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Hải Thanh, Bắc Việt. Ngài xuất
gia làm đệ tử của Thiền sư Hà Trạch. Ngài là pháp tử đời thứ 9 dòng Thiền
Vô Ngôn Thông. Ngài thị tịch năm 1119—A Vietnamese Zen master from Hải
Thanh, North Vietnam. He left home and became a disciple of Zen master Hà
Trạch. He was the dharma heir of the ninth generation of the Wu-Yun-T’ung
Zen Sect. He passed away in 1119.
Không Luân:
1) Không
Đại: Một trong ngũ đại (đất, nước, lửa, gió, hư không)—Space, one of the
five great elements (earth, water, fire, wind, space).
2) Bánh
xe hư không: The wheel of space.
3) Cõi hư
không thấp nhất của thế giới nầy—The wheel of space below the water and
wind wheels of a world. The element space is called the wheel of space.
Không Lý: Lý không của ngã và
pháp—The sunya principle or law—The doctrine of Emptiness (the unreality
of the ego and phenomena).
Không Lý Luận Xét Đoán:
Avitakko (p)—Non reasoning and judgment.
Không Ma: Tà kiến ma chướng
khởi lên từ tâm cho rằng nghiệp quả không có thật—The demons who arouse in
the heart the false belief that karma is not real.
Không Mê Lòa: Clear-sighted.
Không Môn:
1)
Sunyata school—Pháp môn không tướng hay trường phái dạy về tánh không thực
của vạn pháp, phá bỏ kiến chấp thường hữu, ngã không, pháp không, hữu vi
không, vô vi không, một trong bốn tông phái Thiên Thai—The teaching which
regards everything as unreal or immaterial, which also denies that there
can be any static existence, one of the four divisions made by T’ien-T’ai.
2) Cửa
vào Niết Bàn: The door to nirvana.
3) Tên
gọi chung cho Phật Giáo: A general name for Buddhism.
Không Môn Tử: Vị Tăng—Buddhist
monks.
Không Nằm Giường Cao Rộng:
Anuccasayanamaha-sayana—Not to sit on a high, broad, large bed.
Không Nên Câu Chấp:
1) Should
not be inflexible.
2) Should
not be attached to anything.
Không Nghi Ngờ Gì Cả:
Undoubtedly
Không Nghi Ngờ Là Con Vật Bị Giết Để Làm
Đồ Ăn Cho Mình: Not in doubt that the creature has been killed
to feed us.
Không Ngoảnh Mặt Dửng Dưng Với Chúng Sanh:
Be never indifferent toward sentient beings.
Không Ngờ: Accisdental.
Không Ngớt: See Không ngừng
nghỉ.
Không Ngôn Thuyết: Anabhilapya
(skt)—To be inexpressible.
Không Ngừng Nghỉ:
Endlessly—Continuously.
Không Nhàn Đàm Hý Luận: To
refrain from gossiping.
Không Nhàn Xứ: Aranya (skt)—A
Lan Nhã—Một khu rừng hay một nơi an cư cách nhà dân từ 300 đến 600 bước,
thích hợp cho chư Tăng Ni tu hành—A forest or a retired place, 300 to 600
steps away from human habitation suitable for the religious practices of
monks and nuns.
Không Nhẫn: Nhẫn đạt được khi
xem những khổ đau phiền não là không thật—Patience attained by regarding
suffering as unreal.
Không Nhúc Nhích: To stand
still.
Không Như Lai Tạng: Như Lai
Tạng là anh của chân như. Thể tính của chân như là không tịch và thanh
tịnh (như trong chiếc gương sáng, không có một thực chất nào nên gọi là
không, chứ không phải gọi cái thể của chân như là không)—The Bhutatathata
in its purity—Absoluteness.
Không Nhứt Thiết Xứ: Không Biến
Xứ—Biến nhất thiết xứ định hay là một loại thiền định có thể loại bỏ tất
cả những giới hạn trong hư không—The samadhi which removes all limitations
of space—Universal emptiness—Space.
Không Nói: Avakha
(skt)—Speechless.
Không Nói Chuyện Tạp Vô Ích: To
refrain from useless chatting.
Không Nói Dối: Mrsavadaviratih
(skt)—Not to lie—No lying—Not to lie because if we lie, nobody would
believe—Not to lie will help us become truthful and trustful—See Bất Vọng
Ngữ.
Không Phai: Unfaded.
Không Pháp:
1) Theo
Kinh Bát Nhã, Không Pháp là quán về lý không của các pháp như ngã không,
pháp không, hữu vi không, vô vi không, vân vân—According to the Prajna
Sutra, Dharma of void which regards everything (things, ego, dynamics) as
unreal.
2) Theo
Kinh Pháp Hoa, Phẩm Thí Dụ, với Tiểu Thừa Không Pháp có nghĩa là Niết
Bàn—According to the Lotus Sutra, Chapter Parable, Dharma of Void means
the nirvana of Hinayana.
Không Phân Biệt: Avikalpa
(skt)—The indivisible—Non-discriminating—The middle way (Trung đạo).
Không Phân Biệt Trí: See Vô
Phân Biệt Trí.
Không Quả: Quả giải thoát khỏi
tất cả phiền não vì chấp vào pháp và ngã—Empty fruit—Fruit of freedom from
all illusions that things and the ego are real.
Không Quán: Sunnatanupassana
(p)—Contemplation of emptiness—Giả quán hay quán sát mọi vật đều
không—Contemplation of all things as void or immaterial—The meditation on
the void, in comparison with the meditation on the relative truth (giả
quán) with the idea of illusory existence.
** For more information,
please see Không
Hữu Nhị Chấp.
Không Quen: Unaccustomed to.
Không Quyền: Riktamusti
(skt)—Quả đấm vào hư không, như gạt một đứa trẻ với một nắm tay không, đây
không phải là những gì Phật dạy—Empty fist, i.e. deceiving a child by
pretending to have something for it in the closed hand; not the Budha’s
method.
Không Quyết Định: To be
undetermined.
Không Rung Động: Alola
(skt)—Unagitated.
Không Sanh:
1) Tu Bồ
Đề: Subhuti (skt)—Một trong mười đại đệ tử của Phật, người có biệt tài
thuyết giảng về tánh không—One of the ten great pupils of the Buddha—One
who expounded vacuity or immateriality—Who was said to be foremost in
understanding of Sunyata.
2) Trạng
thái giống như sự trống rỗng: Sunyata (skt)—The state that is like
emptiness—Born emptiness.
Không Sát Sanh:
Pranatipataviratih (skt)—Pranatipatad-vairamani (p)—Không sát sanh là
không giết hại vì lòng từ bi mẫn chúng. Đây là giới luật đầu tiên dành cho
cả xuất gia lẫn tại gia, không sát sanh bao gồm không giết, không bảo
người giết, không hoan hỷ khi thấy giết, không nghĩ đến giết hại bất cứ
lúc nào, không tự vận, không tán thán sự giết hay sự chết bằng cách nói:
“Ông/bà thà chết đi còn sướng hơn sống.” Không sát sanh cũng bao gồm không
giết hại thú vật. Không sát sanh cũng bao gồm không giết thú làm thịt, vì
làm như vậy, chúng ta chẳng những cắt ngắn đời sống mà còn gây đau đớn và
khổ sở cho chúng nữa (ba lý do trọng yếu để ngăn chặn sát sanh:
a) Nghiệp báo nhơn quả:
sát nghiệp bị sát báo, tức là giết người sẽ bị người giết lại. Đức Phật
dạy: “Tất cả các loài hữu tình chúng sanh loài nào cũng quý trọng thân
mạng, đều tham sống sợ chết. Tất cả già trẻ đều lo tiếc giữ thân mạng,
thậm chí đến lúc già gần chết đến nơi vẫn còn sợ chết. Vì quý trọng sự
sống, nên khi bị gia hại là họ căm thù trọn kiếp. Lúc gần chết lại oán
ghét nhau, lấy oán để trả oán, oán không bao giờ chấm dứt.” b) Sát sanh
cùng với tâm cứu hộ trái nhau. c) Bồi dưỡng thân tâm: Phật giáo cấm Phật
tử đích thân giết hại, cố ý giết hại, nhơn giết, duyên giết; không cho
phép Phật tử chế tạo và bán các dụng cụ sát sanh như cung tên, đao gươm,
súng đạn, vân vân)—Not to kill—No killing—Not to kill out of the pity of
others—Not to kill will help us become kind and full of pity. This is the
first Buddhist precept, binding upon clergy and laity, not to kill and
this includes not to kill, not to ask other people to kill, not to be
joyful seeing killing, not to think of killing at any time, not to kill
oneself (commit suicide), not to praise killing or death by saying “it’s
better death for someone than life.” Not to kill is also including not to
slaughtering animals for food because by doing this, you do not only cut
short the lives of other beings, but you also cause pain and suffering for
them—See Bất Sát sanh.
Không Sắc:
1) Không
dục lạc thế gian: Ni-raga (skt)—Free from worldly pleasure.
2) Không
sắc và sắc: Formless and with form.
3) Lý và
sự: Noumena and phenomena.
Không Sợ Hãi: Nir-bhaya
(skt)—Fearless—See Vô Úy.
Không Tà Dâm:
Kamamithyacaradviratih (skt)—Không tà hạnh vì chúng ta không muốn làm
người xấu trong xã hội. Không tà dâm giúp cho thân tâm chúng ta thanh bạch
và lương thiện (Giới nầy chia làm hai loại, tại gia và xuất gia. Không tà
dâm chỉ dành cho người tại gia thọ trì năm giới cấm, nghĩa là vợ chồng
không chính thức cưới hỏi, phi thời, phi xứ, đều thuộc tà dâm. Giới cấm
nầy chẳng những giúp ta tránh được quả báo, mà còn đặc biệt gìn giữ và
trưởng dưỡng thân tâm không cho chạy theo tình dục phi thời phi pháp. Về
phần Tăng chúng xuất gia, với ý chí cầu phạm hạnh, giới nầy đòi hỏi Tăng
chúng đoạn tuyệt với tất cả mọi hành vi dâm dục, cho đến khởi tâm động
niệm đều là phạm giới)—Not to have adultery—No adultery—Not to have
unchaste because we don’t want to be a bad person in the society. Not to
have unchaste will help us become pure and good—See Bất Dâm Dục.
Không Tả Nổi: Inexpressible.
Không Tách Rời Được:
Inseparable—In Buddhism, moral precepts and intellectual enlightenment are
inseparable: Trong đạo Phật, trì giới và tinh thần giác ngộ không bao giờ
tách rời nhau được.
Không Tam Muội: Asakrt samadhi
(skt)—Phép Tam Muội Không hay quán tưởng lẽ không, một trong ba phép Tam
Muội (thấy ngũ uẩn không có ta, không có cái của ta)—The samadhi which
regards the ego and things as unreal, one of the three samadhis.
** For more information,
please see Tam Tam
Muội.
Không Tạng Bồ Tát: Akasagarbha
Bodhisattva—Empty Store Bodhisattva.
Không Tánh: Sunyata (skt)—The
nature of the Void or immaterial—The Bhutatathata.
Không Tâm: Acitta
(skt)—No-mind—Not an object of thought—Inconceivable—Unnoticed—Tâm quán
không hay tâm không còn vướng víu vào nhân quả—An empty mind or heart—A
mind meditating on the void or infinite—A mind not entangled in cause and
effect—A mind detached from the phenomenal.
Không Tận Hữu Vi
Không Trụ Vô Vi: Not exhausting the mundane state—Theo Kinh Duy
Ma Cật, phẩm mười một, Bồ Tát Hạnh, Phật bảo các Bồ Tát rằng: “Có pháp môn
‘Tận, Vô Tận Giải Thoát’ các ông nên học. Sao gọi là Tận? Nghĩa là pháp
hữu vi. Sao gọi là Vô Tận? Nghĩa là pháp vô vi. Như Bồ Tát thời không tận
hữu vi, cũng không trụ vô vi.” Lại vì đủ các phước đức mà không trụ vô vi;
vì đủ cả trí tuệ mà không tận hữu vi; vĩ đại từ bi mà không trụ vô vi; vì
mãn bổn nguyện mà không tận hữu vi; vì nhóm thuốc pháp mà không tận hữu
vi; vì tùy bệnh cho thuốc mà không tận hữu vi; vì biết bệnh chúng sanh mà
không trụ vô vi; vì dứt trừ bệnh chúng sanh mà không tận hữu vi. Các Bồ
Tát chánh sĩ tu tập pháp nầy thời không tận hữu vi, không trụ vô vi, đó
gọi là pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát mà các ông cần phải học—According
to the Vimalakirti Sutra, chapter eleven, the Bodhisattva Conduct, the
Buddha said to the Bodhisattvas: “There are the exhaustible and the
inexhaustible Dharmas which you should study. What is the exhaustible?
It is the active (yu wei or mundane) Dharma. What is the inexhaustible?
It is the non-active (wu wei or supramundane) Dharma. As Bodhisattvas,
you should not exhaust (or put an end to) the mundane (state); nor should
you stay in the supramundane (state). Further, to win merits, a
Bodhisattva does not stay in the supramundane, and to realize wisdom he
does not exhaust the mundane. Because of his great kindness and
compassion, he does not remain in the supramundane, and in order to
fullfil all his vows, he does not exhaust the mundane. To gather the
Dharma medicines he does not stay in the supramundane, and to administer
remedies he does not exhaust the mundane. Since he knows the illnesses of
all living beings he does not stay in the supramundane, and since he wants
to cure their illnesses, he does not exhaust the mundane. Virtuous Ones, a
Bodhisattva practicing this Dharma neither exhausts the mundane nor stays
in the supramundane. This is called the exhaustible and inexhaustible
Dharma doors to liberation which you should study.
(A)
Sao gọi là Không Tận Hữu Vi? Nghĩa là không lìa đại từ, không bỏ
đại bi, sâu phát tâm cầu nhứt thiết trí mà không khinh bỏ, giáo hóa chúng
sanh quyết không nhàm chán; đối pháp tứ nhiếp thường nghĩ làm theo , giữ
gìn chánh pháp không tiếc thân mạng, làm các việc lành không hề nhàm mỏi,
chí thường để nơi phương tiện hồi hướng, cầu pháp không biếng trễ, nói
pháp không lẫn tiếc, siêng cúng dường chư Phật, cố vào trong sanh tử mà
không sợ sệt, đối việc vinh nhục lòng không lo không mừng, không khinh
người chưa học, kỉnh người học như Phật, người bị phiền não làm cho phát
niệm chánh, cái vui xa lìa không cho là quý, không đắm việc vui của mình
mà mừng việc vui của người, ở trong thiền định tưởng như địa ngục, ở trong
sanh tử tưởng như vườn nhà, thấy người đến cầu pháp tưởng như thầy lành,
bỏ tất cả vật sở hữu tưởng đủ nhứt thiết trí, thấy người phá giới tâm nghĩ
cứu giúp, các pháp Ba La Mật tưởng là cha mẹ, các pháp đạo phẩm tưởng là
quyến thuộc, làm việc lành không có hạn lượng, đem các việc nghiêm sức ở
các cõi Tịnh Độ trau dồi cõi Phật của mình, thực hành bố thí vô hạn, đầy
đủ tướng tốt, trừ tất cả điều xấu, trong sạch thân khẩu ý, nhiều số kiếp
sanh tử mà lòng vẫn mạnh mẽ, nghe các Đức Phật quyết chí không mỏi, dùng
gươm trí tuệ phá giặc phiền não, ra khỏi ấm giới nhập, gánh vác chúng sanh
để được hoàn toàn giải thoát, dùng sức đại tinh tấn phá dẹp ma quân,
thường cầu vô niệm, thực tướng trí huệ, thực hành ít muốn biết đủ mà chẳng
bỏ việc đời, không sái oai nghi mà thuận theo thế tục, khởi tuệ thần thông
dẫn dắt chúng sanh, đặng niệm tổng trì đã nghe thời không quên, khéo biết
căn cơ dứt lòng nghi của chúng sanh, dùng nhạo thuyết biện tài diễn nói
pháp vô ngại, thanh tịnh mười nghiệp lành hưởng thọ phước trời người, tu
bốn món vô lượng mở đường Phạm Thiên, khuyến thỉnh nói pháp, tùy hỷ ngợi
khen điều lành, đặng tiếng tốt của Phật, thân khẩu ý trọn lành, đặng oai
nghi của Phật, công phu tu tập pháp lành sâu dầy càng tiến nhiều lên, đem
pháp Dặi thừa giáo hóa thành tựu Bồ Tát Tăng, lòng không buông lung, không
mất các điều lành. Làm các pháp như thế gọi là Bồ Tát không tận hữu
vi—“What is meant by not exhausting the mundane (state)? It means not
discarding great benevolence; not abandoning great compassion; developing
a profound mind set on the quest of all-knowledge (sarvajna) or Buddha
knowledge) without relaxing for even an instant; indefatigable teaching
and converting living beings; constant practice of the four Bodhisattva
winning methods; upholding the right Dharma even at the risk of one’s body
and life; unwearied planting of all excellent roots; unceasing application
of expedient devices (upaya) and dedication (parinamana); never-ending
quest of the Dharma; unsparing preaching of it; diligent worship of all
Buddhas; hence fearlessness when entering the stream of birth and death;
absence of joy in honour and of sadness in disgrace; refraining from
slighting non-practisers of the Dharma; respecting practisers of Dharma as
if they were Buddhas; helping those suffering from klesa to develop the
right thought; keeping away from (desire and) pleasure with no idea of
prizing such a high conduct; no preference for one’s happiness but joy at
that of others; regarding one’s experience in the state of samadhi as
similar to that in a hell; considering one’s stay in samsara (i.e. state
of birth and death) as similar to a stroll in a park; giving rise to the
thought of being a good teacher of Dharma when meeting those seeking it;
giving away all possessions to realize all-knowledge (sarvajna); giving
rise to the thought of salvation when seeing those breaking the precepts;
thinking of the (six) perfections (paramitas) as dear as one’s parents;
thinking of the (thirty-seven) conditions contributory to enlightenment as
if they were one’s helpful relatives; planting all excellent roots without
any restrictions; gathering the glorious adornments of all pure lands to
set up one’s own Buddha land; unrestricted bestowal of Dharma to win all
the excellent physical marks (of the Buddha); wiping out all evils to
purify one’s body, mouth and mind; developing undiminished bravery while
transmigrating through samsara in countless aeons; untiring determination
to listen to (an account of) the Buddha’s countless merits; using the
sword of wisdom to destroy the bandit of klesa (temptation) to take living
beings out of (the realm of the five) aggregates (skandhas) and (twelve)
entrances (ayatana) so as to liberate them for ever; using firm devotion
to destroy the army of demons; unceasing search for the thought-free
wisdom of reality; content with few desires while not running away from
the world in order to continue the Bodhisattva work of salvation; not
infringing the rules of respect-inspiring deportment while entering the
world )to deliver living beings); use of the transcendental power derived
from wisdom to guide and lead all living beings; controlling (dharani) the
thinking process in order never to forget the Dharma; being aware of the
roots of all living beings in order to cut off their doubts and suspicions
(about their underlying nature); use of the power of speech to preach the
Dharma without impediment; perfecting the ten good (deeds) to win the
blessings of men and devas (in order to be reborn among them to spread the
Dharma); practicing the four infinite minds (kindness, pity, joy and
indifference) to teach the Brahma heavens; rejoicing at being invited to
expound and extol the Dharma in order to win the Buddha’s (skillful)
method of preaching; realizing excellence of body, mouth and mind to win
the Buddha’s respect-inspiring deportment; profound practice of good
Dharma to make one’s deeds unsurpassed; practicing Mahayana to become a
Bodhisattva monk; and developing a never-receding mind in order not to
miss all excellent merits.
“This is the Bodhisattva not exhausting the mundane state.
(B)
Sao gọi là không trụ vô vi? Nghĩa là tu học môn Không; không lấy
không làm chỗ tu chứng; tu học môn vô tướng, vô tác, không lấy vô tướng,
vô tác làm chỗ tu chứng; tu học pháp Vô Sanh không lấy Vô Sanh làm chỗ tu
chứng; quán Vô Thường mà không nhàm việc lành (lợi hành); quán Thế Gian
Khổ mà không ghét sanh tử; quán Vô Ngã mà dạy dỗ người không nhàm mỏi;
quán Tịch Diệt mà không tịch diệt hẳn; quán xa lìa (buông bỏ) mà thân tâm
tu các pháp lành; quán Không Chỗ Về (không quy túc) mà vẫn về theo pháp
lành; quán Vô Sanh mà dùng pháp sanh (nương theo hữu sanh) để gánh vác tất
cả; quán Vô Lậu mà không đoạn các lậu; quán không chỗ làm (vô hành) mà
dùng việc làm (hành động) để giáo hóa chúng sanh; quán Không Vô mà không
bỏ đại bi; quán Chánh Pháp Vị (chỗ chứng) mà không theo Tiểu thừa; quán
các pháp hư vọng, không bền chắc, không nhân, không chủ, không tướng, bổn
nguyện chưa mãn mà không bỏ phước đức thiền định trí tuệ. Tu các pháp như
thế gọi là Bồ Tát không trụ vô vi—“What is the bodhisattva not staying in
the supra-mundane state (nirvana)? It means studying and practicing the
immaterial but without abiding in voidness; studying and practicing
formlessness and inaction but without abiding in them; studying and
practicing that which is beyond causes but without discarding the roots of
good causation; looking into suffering in the world without hating birth
and death (i.e. samsara); looking into the absence of the ego while
continuing to teach all living beings indefatigably; looking into nirvana
with no intention of dwelling in it permanently; looking into the
relinquishment (of nirvana) while one’s body and mind are set on the
practice of all good deeds; looking into the (non-existing) destinations
of all things while the mind is set on practicing excellent actions (as
true destinations); looking into the unborn (i.e. the uncreate) while
abiding in (the illusion of) life to shoulder responsibility (to save
others); looking into passionlessness without cutting off the
passion-stream (in order to stay in the world to liberate others); looking
into the state of non-action while carrying out the Dharma to teach and
convert living beings; looking into nothingness without forgetting about
great compassion; looking into the right position (of nirvana) without
following the Hinayana habit (of staying in it); looking into the
unreality of all phenomena which are neither firm nor have an independent
nature, and are egoless and formless, but since one’s own fundamental vows
are not entirely fulfilled, one should not regard merits, serenity and
wisdom as unreal and so cease practicing them.
“This is the Bodhisattva not staying in the non-active (wu wei) state.
Không Tế: Thực Tế—Vùng phi vật
chất hay niết bàn—The region of immateriality, or nirvana.
Không Tên: No name—Unonymous.
Không Thánh: Vị Thánh hữu danh
vô thực—A saint who bears the name without possessing the character.
Không Thấy E Ngại: Without
paranoia
Không Thấy Lỗi Người: Not to
look for people’s mistakes.
1) Phật
dạy: “Khi nào chúng ta không còn thấy lỗi người hay chỉ thấy cái hay của
chính mình, chừng đó chúng ta sẽ được các bậc trưởng lão nễ vì và hậu bối
kính ngưỡng—The Buddha taught: “When we do not see others’ mistakes or see
only our own rightness, we are naturally respected by seniors and admired
by juniors.”
2) Theo
Kinh Pháp Cú, câu 50, Đức Phật dạy—According to the Dharmapada, sentence
50, the Buddha taught: “Chớ nên dòm ngó lỗi người, chớ nên dòm coi họ đã
làm gì hay không làm gì, chỉ nên ngó lại hành động của mình, thử đã làm
được gì và chưa làm được gì—Let not one look on the faults of others, nor
things left done and undone by others; but one’s own deeds done and
undone.”
Không Thể Chê Trách Được:
Blamelessly
Không Thể Diễn Tả Đúng Được:
Cannot be exactly described.
Không Thể Nghĩ Bàn: Vượt ra
ngoài sự hiểu biết, trí thông minh và trì huệ của con
người—Unimaginable—Beyond the comprehensive level of human knowledge,
intelligence and wisdom.
Không Thể Tránh Được:
Inevitably.
Không Thể Truyền Đạt Được:
Cannot be communicated
Không Thích Đáng:
Irrelevant—Inappropriate.
Không Thích Hợp: See Không
thích đáng.
Không Thích Nghi: To have no
relevance to.
Không Thích Thú: Unpleasant.
Không Thủy Pháp: Đại Thừa Thủy
Giáo. Giáo thứ hai trong năm giáo mà tông Hoa Nghiêm dựng lên. Thủy giáo
Hoa Nghiêm chia làm hai phần là Không Thủy, thuyết minh về lý các pháp đều
không như trong các kinh Bát Nhã và Tam Luận, vân vân. Tướng thủy giáo xây
dựng mọi pháp trong kinh Thâm Mật và Du Già Luận—The initial teaching of
the undeveloped Mahayana doctrines is the second of the five periods of
Sakyamuni’s teaching as defined by the Hua-Yen School. His consists of two
parts: The initial doctrine of Sunya, the texts for which are the Prajna
and the Madhyamika schools, etc; the initial doctrine of the essential
nature as held by he esoterics, in the Yogacara texts.
Không Thực Chất: Ephemeral—See
Vô Thường.
Không Thực Chất Tính:
Nihsvabhava-sunya (skt)—Non-substantiality.
Không Thực Tế: Not practical.
Không Tịch: Sunyta-sama (skt).
·
Không tịch: Emptiness of calmness or tranquility.
·
Trạng thái không tịch, trạng thái của niết bàn—Immaterial—A
condition beyond disturbance, the condition of nirvana.
Không Tiền Khoáng Hậu:
Unprecedent—Unique.
Không Tinh Tấn: Aceshta
(skt)—Effortless—Motionless.
Không Tính: Sunyata (skt)—Thuấn
Nhã Đa—Tên khác của chân như, thoát ly chấp ngã và chấp pháp thì thực thể
của chân như hiển hiện—The nature of void or immaterial—The Bhutatathata,
the universal substance, which is not ego and things. But while not Void
is of the Void-nature.
Không Tông: Tông lấy lý không
(ngã không và pháp không) làm tông chỉ (Tiểu Thừa Thành Thực tông, Đại
Thừa Tam Luận tông)—The Sunya sect, i.e. those which make the unreality of
the ego and things their fundamental tenet.
Không Tránh Khỏi: Unavoidable.
Không Trần: Không Kiến Trần—Sự
quán không của phái ngoại đạo cho rằng phi vật chất là một thực thể, do đó
cho rằng tâm thức hay ngã có thật—Sunya as sub-material, ghostly, or
spiritual, as having diaphanous form, a non-Buddhist view of the
immaterial as an entity, hence the false view of a soul or ego that is
real.
Không Trộm Cắp:
Adinnadana-veramani (skt).
(A) Nghĩa của
“Không Trộm Cắp”—The meanings of “Adninnadana-veramani:
1) Không
trộm cắp là giới thứ nhì trong ngũ giới. Chúng ta không có quyền lấy bất
cứ thứ gì mà người ta không cho. Không trộm cắp giúp cho chúng ta trở nên
lương thiện hơn (bất cứ vật gì của người không cho mà mình cố ý lấy, thì
gọi là thâu đạo hay trộm cắp. Ý nghĩa ngăn cản trộm cắp là để diệt trừ
nghiệp báo, nhơn quả ở ngoài, chủ yếu là trừ tâm niệm tham và diệt hẳn ngã
chấp, ái dục mạnh thì khởi tâm tham cầu, tham cầu không được thì sanh ra
trộm cắp. Một khi chấp ngã, nghĩa là chấp có ta, thì có của mình mà không
có của người, chỉ nghĩ đến sở hữu của ta, không nghĩ đến sở hữu của người.
Ngăn ngừa trộm cướp tức là chận đứng lòng tham và chấp ngã)—Not to
steal—No stealing—The second of the ten commandments—Not to steal because
we have no right to take what is not given. Not to steal will help us
becom honest.
(B) Kết quả
của việc không trộm cắp—The consequences of “Not to steal”
·
Tăng lòng quảng đại: To increase one’s generosity.
·
Tăng lòng thành tín nơi người: To increase trust in other
people.
·
Tăng lòng thành thật: To increase one’s honesty.
·
Không khốn khổ: Life without sufferings.
·
Không thất vọng: Life without disappointment.
Không Tụ:
1) Một
nơi trống trải: An empty a bode or place.
2) Thân
nầy là sự hội tụ của ngũ uẩn, giả hợp và không có tự tánh—The body as
composed of the six skandhas, which is a temporary assemblage without
underlying reality.
Không Tuệ: Trí tuệ quán chân lý
hay lý không—The wisdom which beholds spiritual truth.
Không Tư Duy Biện Luận: Avicara
(p)—Non discursive thinking.
Không Từ Bỏ: Unimpeded.
Không Tự Dối Mình: No
self-deception—Không tự dối mình là một trong những cửa ngõ đi vào đại
giác, vì nhờ đó mà chúng ta không tự khen mình và chê người—No
self-deception is one of the most important entrances to the great
enlightenment; for with it, we do not praise ourselves and blame others.
Không Tự Tánh: Nihsvabhava
(skt)—Without self-nature.
Không Tức Thị Sắc, Sắc Tức Thị Không:
Sunyata is rupa—Không bất dị sắc, sắc bất dị không (không tức là sắc, sắc
tức là không; không không khác sắc, sắc không khác không)—The immaterial
is the material (matter), and vice versa.
Không Tướng: Animitta
(skt)—Voidness—Idle fancies—Emptiness—Space—Formless—No-form—Devoid of
appearances—Tướng trạng của các pháp đều là không, pháp do nhân duyên sanh
ra không có tự tính. Tính không nầy không thể nào được diễn tả bằng lời
(chỉ có Đức Phật mới thấu triệt được cái không tướng)—The characteristic
of all things is unreality, i.e. they are composed of elements which
disintegrate. Immaterial which cannot be expressed in the terms of
material.
Không Tưởng:
1) Nghĩ
tưởng viễn vông: Vainly thinking or desiring.
2) Nghĩ
tưởng về tánh phi vật chất (không): Thinking of immateriality.
Không Tưởng Tượng Nổi: Can
scarcely imagine
Không Tựu: See Không Tụ.
Không Uống Chất Cay Độc: Not to
drink intoxicated sunstances.
Không Uống Rượu:
Madyapanaviratih (skt)—Sura-maireya-madya (p)—Không uống rượu vì uống rượu
sẽ làm cho tánh người cuồng loạn, rượu là cội gốc của buông lung (Rượu làm
cho thân tâm sanh nhiều thứ bệnh, người uống rượu thường ưa đấu tranh, mất
dần trí huệ, vì uống rượu mà dẫn đến tội ác. Khi uống rượu say rồi, người
ấy có thể phạm các giới khác và làm các việc ác khác rất là dễ dàng. Đức
Phật cấm không cho Phật tử uống rượu là vì muốn cho họ giữ gìn thân tâm
thanh tịnh, và tăng trưởng đạo niệm)—Not to drink liquor. Not to drink
liquor because it leads to carelessness and loss of all senses. Not to
drink will help us to become careful with all clear senses—The fifth of
the ten commandments against alcohol.
Không Vọng Ngữ:
Musavada-veramani—The fourth commandment of not to lie or not to speak
false speaking—See Bất Vọng Ngữ.
Không Vô: Tất cả sự vật đều
không có tự tính—Unreality, or immateriality, of things, which is defined
as nothing existing of independent or self-contained nature.
Không Vô Biên Xứ:
Akasanantyayatana (skt)—Tầng trời thứ nhất của cõi vô sắc giới (chán các
thân hình sắc, mong cái không vô biên)—The state or heaven of boundless
(infinite) space in the formless realm—The abode of the infinite space,
the formless, or immaterial world. The first of the Arupaloka heavens, one
of the four Brahmalokas.
Không Vô Biên Xứ Định:
Aksanantyayatana-dhyana (skt)—Thiền định liên hệ tới cõi không vô biên xứ.
Khi phát định trong cõi nầy thì hành giả chỉ còn cảnh giới là không vô
biên xứ, chứ không còn biết cũng không còn hiểu—The dhyana, or meditation
connected with the abode of the infinite space (the formless or
immaterial), in which all thought of form is suppressed.
Không Vô Ngã: Không và vô
ngã—Unreal and without ego.
Không Vương: Bhismagarjitasvara
raja (skt).
1) Tên
gọi khác của Đức Phật—The king of immateriality—Buddha—Lord of all
things—King of Majestic Voice.
2) Vị
Phật đầu tiên hiện ra trong Không Kiếp trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa—The
first Buddha to appear in the Kalpa of Emptiness in the Lotus Sutra.
Không Vương Phật:
Dharmagahanabhyudgata-raja (skt)—Theo Kinh Pháp Hoa thì Không Vương Phật
là tên của một vị Phật ở thời quá khứ, ngài đã dạy về trí tuệ tánh không
hay trí tuệ tuyệt đối—According to the Lotus Sutra, Buddha who is said to
have taught absolute intelligence, or knowledge of the absolute.
Không Xâm Phạm Người Khác: Not
to infringe upon others.
Không Xứ: Akasanantyayatana
(skt)—See Không Vô Biên Xứ.
Khổng:
1) Cái
lổ: A hole.
2) Họ của
Đức Khổng Phu Tử: Surname of Confucius.
3) Khổng
lồ: Great—Very.
Khổng Đạo: Confucianism—Hệ
thống luân lý đạo đức thoát thai từ giáo lý của Đức Khổng Phu Tử, nhấn
mạnh về lòng hiếu, để, trung, lễ, tín, công bằng, liêm sĩ. Khổng Tử sanh
vào khoảng năm 557-479 trước Tây lịch, người nước Lỗ. Ông sống vào thời
luân lý và văn hóa của Nhà Châu đang suy vi, nên đã cố gắng tìm cách chấn
hưng; ông dạy 3.000 đệ tử về thi, sử, lễ và nhạc. Ông là nhà giáo dục vĩ
đại của Trung quốc và được người hiện đời gọi ông là “Vạn Thế Sư Biểu.”
Tuy nhiên, đạo Khổng và đạo Phật hoàn toàn khác biệt nhau. Đạo Khổng chỉ
nặng về gia đình và xã hội, con cái lớn lên lập gia đình, lấy vợ gả chồng,
rồi sanh con đẻ cháu nối dõi tông đường, thờ vua giúp nước, vân vân. Ngược
lại, đạo Phật thì chủ trương việc xuất gia, rời bỏ gia đình cha mẹ, vợ
con, và lục thân quyến thuộc mà đi tu. Cho nên lúc khởi đầu các học giả
Khổng học, khi chưa hiểu thấu suốt về đạo Phật, cho rằng đạo Phật là tà
giáo ngoại đạo, bỏ cha mẹ, vợ con, phá hoại nền tảng gia đình và xã hội,
bất trung bất hiếu. Vì thế mà khi đạo Phật mới được đưa vào Trung Quốc đã
bị các học giả Khổng giáo quyết liệt chống đối—The system of morality
growing out of the teachings of the Chinese philosopher Confucius, which
stressed on filiality, respect for the elderly, loyality, propriety,
faith, justice, decency and shame. Confucius (557-479) was born in the
state of Lu. He lived in the time when the moral and cultural tradition of
Chou were in rapid decline. In attempting to uphold the Chou culture, he
taught poetry, history, ceremonies and music to about 3,000 diciples. He
was the first Chinese Great Educator that Chinese people still give him
the title “Master of Ten Thousand Years.” However, Confucianism and
Buddhism are totally different. Confucianism emphasizes on the ideas of
family and society. Confucianism emphasizes on teaching children to grow
up, to get married, to bear children and grandchildren, to continue the
family line, to be a productive member in society. In contrast, Buddhism
is founded on the essence of ‘abandoning worldly ways,’ to leave home, to
detach from family, parents, wife, husband, children, relatives, friends,
etc. Therefore, Confucian scholars considered Buddhism as wicked and false
teachings. That was why when Buddhism was first introduced into China, it
was strongly opposed by Confucian scholars.
Khổng Giáo: See Khổng Đạo.
Khổng Mạnh: Confucius and
Mencius
Khổng Tử: Confucius.
Khổng Tước: Mayura
(skt)—Peacocks.
Khổng Tước Minh Vương: Phật Mẫu
Đại Kim Diệu Khổng Tước Minh Vương—Tiền thân của Phật Thích Ca, khi còn là
chim khổng tước, ngài đã từng nút lấy nước từ đá để làm thần dược trị
bệnh; bây giờ là một đại minh vương Bồ Tát một đầu bốn tay, cưỡi chim
khổng tước—Peacock king—A former incarnation of Sakyamuni, when as a
peacock he sucked from a rock water of miraculous healing power; now one
of the maharaja bodhisattva, with four arms, who rides on a peacock.
Khổng Tước Thành:
Mathura—Krsnapura (skt)—Một thành phố hay vương quốc cổ của Ấn Độ, nơi có
rất nhiều tháp—An ancient city and kingdom of India, famous for its
stupas, reputed birthplace of Krisna.
Khổng Tước Vương: Peacock
king—See Khổng Tước Minh Vương.
Khơø: Stupid—Brainless—Unwise.
Khởi: To begin—To start.
Khởi Đầu: To commence—To start.
Khởi Điểm: Initial
point—Starting point.
Khởi Hành: To start off—To
start away.
Khởi Sự: See Khởi Đầu.
Khởi Tín Luận: Awakening of
Faith.
Khởi Xướng: To take the
initiative.
Khu: Đuổi—To drive out or
away—To expel.
Khu Long: Người đuổi độc long,
từ dùng để chỉ vị a la hán có phẩm chất và năng lực cao, có thể trừ khử
được loài độc long—Dragon-expeller, a term for an arhat of high character
and powers, who can drive away evil nagas.
Khu Ô:
1) Đuổi
quạ—To drive away crows—Scarecrow.
2)
See Khu Ô Sa Di.
Khu Ô Sa Di: Một tu sĩ trẻ,
tuổi từ 13 đến 18, có người nói tuổi từ 7 đến 13, là tuổi còn nhỏ nhưng đủ
lớn để đuổi quạ trong những khu đất quanh chùa—A novice monk who is from
13 to 18 years of age, some says from seven to thirteen, he being old
enough to drive away crows.
Khù Khờ: Idiot—Stupid.
Khuất:
1) Bị che
khuất: Hidden.
2) Cóp
xuống: To bend.
3) Khuất
phục: Oppression.
4) Sai
lạc: Wrong.
Khuất Chi: Kutche or Kutcha
(skt)—Khuất Từ—Khố Xa—Quy Tư—Khưu Tư—Một vương quốc cổ thuộc Turkestan,
đông bắc Kashgar—An ancient kingdom and city in Turkestan, north-east of
Kashgar.
Khuất Đà Ca A Hàm: Khuddakagama
(p)—Bộ thứ năm trong năm bộ A Hàm, chỉ hết thảy tạp kinh chưa kể trong tứ
A Hàm kia như Kinh Pháp Cú, Bổn Sanh Kinh (Tiền Thân Đức Phật), Bổn Sự
Kinh (những chuyện xãy ra trong quá khứ)—The fifth of the Agamas,
containing fifteen or fourteen works, including such as the Dharmapada,
Itivrttaka, Jataka, Buddhavamsa, etc.
** For more information,
please see
Khuddaka-Nikaya in
Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section.
Khuất Khuất Sá Ba Đà:
Kukkutapadagiri (skt)—Núi Chân Gà, ở xứ Ma Kiệt Đà, khoảng 100 dậm về phía
đông cây Bồ Đề. Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, núi nầy nằm
cách Gaya khoảng 7 dậm về phía đông nam nơi ngài Ca Diếp nhập Niết
Bàn—Cock’s foot, a mountain said to be 100 miles east of the bodhi tree,
and, by Eitel, in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, it is
7 miles south-east of Gaya, where Kasyapa entered into nirvana.
Khuất Khuất Sá A Lạm Ma: See
Khuất Sá A Lạm Ma.
Khuất Lãng Na: Kuran (skt)—Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển của Giáo Sư Soothill, Khuất Lãng Na
là tên của một vương quốc cổ thuộc Tokhara, bây giờ là Garana, nơi có
nhiều mỏ ngọc bích—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, this is an ancient kingdom in Tokhara, the modern Garana,
with mines of lapis lazuli.
Khuất Lộ Đa:
1) Một
vương quốc cổ nằm về phía bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì có nhiều đền đài xây
dựng bằng đá: Kuluta (skt)—An ancient kingdom in north India, famous for
its rock temples.
2) Một
vùng nằm về phía bắc Kangra: A region north of Kangra.
Khuất Ma La: Khuất Mãn La—Nụ
sen hay búp sen chưa nở (trong các thứ hoa, hoa sen là đẹp nhất, búp sen
chưa nở gọi là khuất-ma-la, khi sen nở xòe gọi là phân-đà-lợi hay
pundarika, khi hoa sắp tàn gọi là ca-ma-la hay kamala)—A lotus bud.
Khuất Phục: To yield—To give
in.
Khuất Sá A Lạm Ma:
Kukkuta-arama (skt)—Tịnh xá được vua A Dục xây trên núi Chân Gà (theo Tây
Vực Ký, vua Vô Ưu tức A Dục Vương đã xây chùa Kê Viên trên núi Chân Gà,
chùa cổ đã bị đỗ nát nhưng nền cũ vẫn còn)—A monastery built on the Cock’s
Foot Mountain by king Asoka.
Khuất Sương Nhĩ Ca: Kashanian
(skt)—Một vùng gần Kermina—A region near Kermina.
Khuây Khỏa: To relieve the
time.
Khuấy Rối: To harass.
Khúc:
1) Cong:
Bent—Crooked.
2) Gù
lưng: Humpbacked.
Khúc Lục: Ghế tựa trong nhà
chùa (làm bằng cách đục gỗ mà thành)—A bent chair used in monasteries.
Khúc Nữ Thành: Thành của những
người đàn bà lung gù. Người ta nói đây là thành Kanyakubja, một vương quốc
thời cổ và là kinh đô của Trung Ấn. Theo truyền thuyết trong Tây Vực Ký
của ngài Huyền Trang thì vì từ chối không kết hôn với Mahavrksa mà 99 nàng
công chúa con vua Brahmadatta đều bị Mahavrksa làm cho gù lưng—The city of
hunchback women, said to be Kanyakubja, an ancient kingdom and capital of
central India. The legend in the Hsuan-Tsang’s Records of Western Lands is
that ninety-nine of King Brahmadatta’s daughters were thus deformed by the
rsi Mahavrksa whom they refused to marry.
Khúc Xỉ: Kutadanti or
Malakutadanti (skt)—Tên của một loài La Sát Nữ—Name of a Raksasi.
Khuê Phong Tông Mật:
Kuei-Fong-Tsung-Mi—Một thiền sư uyên bác đời nhà Đường—A Zen master of
great learning during the T’ang dynasty.
Khuể: Sân giận—Hate—Anger—Rage.
Khuể Kết: Sự trói buộc của sân
hận là một trong cửu kết trói buộc chúng sanh trong luân hồi sanh tử
(chúng sanh do làm việc bất thiện sân hận thù oán, nên chuốc lấy cái khổ
sống chết luân chuyển không ngừng, không sao thoát ra được ba cõi)—One of
the nine bonds that bind men to mortality, the fetter of hatred binding to
transmigration—See Cửu Kết.
Khuể Nộ: Sân hận và phẫn nộ,
một trong tam độc—One of the three poisons, hate and anger—See Tam Độc.
Khum Lưng: To curve one’s back.
Khúm Núm: To cower before
someone.
Khùng: Crazy—Cracked.
Khủng Bố: Persecution.
Khủng Khiếp: Dreadful.
Khuôn Không: Culasunnatasuttam
(skt)—Bài Kinh Tiểu Không trong hệ phái Nguyên Thủy. Kinh dạy về những
nguyên tắc thiền quán căn bản—The Lesser Discourse on Emptiness Sutra of
Theravadan Buddhism, which teaches basic meditation principles.
Khuôn Mẫu:
Example—Model—Pattern
Khuôn Phép: Discipline.
Khuông Việt: Thiền Sư Khuông
Việt (933-1011)—Zen Master Khuông Việt—Thiền sư Khuông Việt, đời thứ tư
dòng Vô Ngôn Thông, quê ở Cát Lợi, quận Thường Lạc. Ông là một trong những
đệ tử xuất sắc nhất của Thiền sư Vân Phong. Khi ông được 40 tuổi thì danh
tiếng ông đã truyền đi khắp nơi. Vua Đinh Tiên Hoàng thường mời ông vào
triều bàn việc chính trị và ngoại giao. Vua còn phong cho ông tước vị
“Khuông Việt Đại Sư.” Về già, sư dời về núi Du Hý cất chùa Phật Đà để chấn
hưng và hoằng dương Phật pháp; tuy nhiên, ngài vẫn tiếp tục phục vụ nhà
Đinh cho đến khi thị tịch vào năm 1011, lúc ấy sư đã 79 tuổi—Zen Master
Khuông Việt, the fourth dharma heir lineage of the Wu-Yun-T’ung Sect, a
Vietnamese Zen master from Cát Lợi, Thường Lạc district. He was one of the
most outstanding disciples of Zen Master Vân Phong. When he was 40 years
old, his reputation spread all over the place. King Đinh Tiên Hoàng always
invited him to the Royal Palace to discuss the national political and
foreign affairs. King Đinh Tiên Hoàng honoured him with the title of
“Khuông Việt Great Master.” When he was old, he moved to Mount Du Hý to
build Phật Đà Temple and stayed there to revive and expand Buddhism;
however, he continued to help the Đinh Dynasty until he died in 1011, at
the age of 79.
Khuy Cơ: Ksi-Ki—Một vị Tăng nổi
tiếng vào thời nhà Đường, một đệ tử xuất sắc của Huyền Trang. Dường như
ông là người độc nhất truyền thừa học thuyết Duy Thức. Pháp Tướng tông quả
nhiên là do Khuy Cơ hệ thống hóa và chính yếu sáng lập nên. Hai sáng tác
quan trọng của Khuy Cơ là Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, và Thành
Duy Thức Luận Thuật Ký, nghĩa là căn bản của tông phái nầy—A noted monk
during the T’ang Dynasty, an outstanding pupil of Hsuan-Tsang. Ksi-Ki
seems to have monopolized the transmission of the idealistic doctrine. The
Fa-Hsiang School was actually systematized and founded chiefly by Ksi-Ki.
His two important works: Fa-Yuan-I-Lin-Chang and Wei-Shih-Shu-Chi, are the
fundamental texts of this school.
Khuyên Bảo: To counsel—To
advise—To give advice—To recommend.
Khuyên Can: To dissuade—To
advise against—To dissuade someone from something.
Khuyên Giải: To console—To
comfort.
Khuyên Ngăn: To advise
against—To dissuade.
Khuyến: Khuyến tấn—To
persuade—To amonish—To exhort.
Khuyến Cáo: To recommend
Khuyến Chuyển: Lần chuyển Pháp
Luân thứ nhì trong ba lần chuyển Pháp Luân của Phật trong vườn Lộc Uyển.
Con người phải hiểu rõ nghĩa và nguyên nhân của khổ đau phiền não, phải
đoạn tận khổ tập, và phải tu tập theo Bát Chánh Đạo để thành Chánh quả—The
second, or exhortation turn of the Buddha’s wheel in the Deer Park, one of
the three turns of the law-wheel when the Buddha preached in the deer
Park. Men must know the meaning and cause of suffering, cut off its
accumulation, realize that it may be extinguished, and follow the
eightfold noble path to attainment of enlightenment.
Khuyến Dụ: To counsel—To
admonish.
Khuyến Giới: Dạy làm điều thiện
gọi là “khuyến,” ngăn cấm làm điều ác gọi là “giới.” Giáo pháp của Phật
đầy đủ hai môn Khuyến Giới (như chư ác mạc tác thuộc về Giới Môn, còn
chúng thiện phụng hành thuộc về Khuyến Môn)—Exhortation and prohibition;
to exhort and admonish; exhort to be good and forbid the doing of evil.
Khuyến Hóa: Khuyến tấn người
chuyển hóa—To exhort to conversion, to convert.
Khuyến Học: To encourage
learning.
Khuyến Khích: To encourage—To
stimulate—To hearten.
Khuyến Lệ: See Khuyến khích.
Khuyến Môn: Pháp môn khuyến tấn
con người làm việc thiện, đối lại với “Giới Môn” (ngăn cấm con người làm
việc ác)—The method of exhortation or persuation, in contrast with
prohibition or command.
Khuyến Phát: Khuyến tấn ai bắt
đầu sống tu theo Phật—To exhort to start the the Buddhist way.
Khuyến Tán: To advise and to
help.
Khuyến Tấn: To advise and to
push.
Khuyến Thiện: To encourage
someone in well-doing.
Khuyến Tu: To encourage
everyone to cultivate the Way.
Khuyết:
1) Bể ra:
Broken.
2) Cửa
ngách trong thành: A city gate.
3) Khiếm
khuyết: Không đủ—Insufficient—Deficient—Wanting—Lacking.
Khuyết Điểm:
Defective—Imperfect—Deficient.
Khuyết Lậu: Người tu giữ giới
như bờ đê ngăn nước lũ. Không giữ giới gọi là khuyết; không giữ giới mà để
sai sót lộ ra ngoài gọi là lậu—A breach and leakage, a breach of the
discipline.
Khuynh Đảo: To overthrow—To
subvert—To topple.
Khuynh Hướng: Tendency—Trend.
Khuynh Hướng Xấu: Daushthulya
(skt)—Evil tendency—Cái tâm thức phân biệt vốn đã bị khuynh hướng xấu hay
tập khí vốn có trong mê lầm lấn phá từ thời vô thỉ—The discriminating
consciousness that is found infested since beginningless time by the evil
tendency or habit-energyinherent in the delusion.
Khưù: To go away—To depart—To
leave—To remove—To dismiss.
Khứ Lai: Đi và đến—Go and Come.
Khứ Lai Kim: Quá khứ, vị lai và
hiện tại—Past, future, present.
Khứ Lai Thực Hữu Tông: Một
trong mười sáu tông phái ngoại đạo chấp rằng quá khứ vị lai và hiện đều là
thực hữu—One of the sixteen heretical sects, which believed in the reality
of past and future as well as present.
Khứ Thức Xoa Ca La Ni:
Siksakarani (skt)—Đột Kiết La.
1) Một vị
Bà La Môn trẻ còn đang tòng học: A young brahman studying with his
preceptor.
2) Một
chương trong Luật Tạng gọi là “Thức Xoa” gồm 100 điều luật cho người mới
xuất gia tu học: A section of the Vinaya called Siksakarani consisting of
100 regulations with reference to the conduct of novices.
Khử Độc: To decontaminate.
Khử Trừ: To eliminate.
Khước: Khước từ—To reject—To
decline.
Khước Nhập Sanh Tử: Từ bỏ cuộc
sống đi trong sanh tử luân hồi của một vị Bồ Tát—To leave his perfect life
to enter into the round of births and deaths as a Bodhisattva does.
Khương: Cây gừng—Ginger.
Khương Kiết La: Kankara
(skt)—Con số lớn—A high number.
Khương Tăng Hội: Sanghavarman
or Sanghapala (skt).
1) Khương
Tăng Hội là tên của một nhà sư người Thiên Trúc, dòng dõi Tây Tạng, nhưng
lại có một vị sư khác cũng tên Khương Tăng Hội, người đã dịch bộ Kinh Vô
Lượng Thọ tại thành Lạc Dương vào năm 252 sau Tây Lịch—An Indian monk
supposed to be of Tibetan descent; but Sanghapala is described as the
eldest son of the prime minister of Soghdiana, and is porbably a different
person. Sanghavarman was the one who conducted translation of The
Indefinite Life Sutra in Lo-Yang in 252 A.D.
2) Khương
Tăng Hội, người nước Khương Cư, cha mẹ sang đất Giao Châu làm ăn buôn bán
kiếm sống. Ngài mồ côi cha từ lúc mới lên mười. Sau đó ngài xuất gia và
trở thành một nhà sư nổi tiếng thời bấy giờ. Ngài thông hiểu Tam Tạng kinh
điển. Ngài sang Đông Ngô (bây giờ là miền Trung nước Tàu) để hoằng dương
Phật Pháp. Ngài dịch nhiều kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán như Kinh Vô
Lượng Thọ và Kinh An Ban Thủ Ý, vân vân. Ngài thị tịch khoảng năm 280 sau
Tây Lịch—Sanghapala, a native of Sogdiane, now belongs to China. His
parents came to North Vietnam to do business to earn a living. His father
passed away when he was only ten years old. After that he left home and
became a very famous monk at that time. He thoroughly understood the
Tripitaka. He went to Tung-Wu (now Central China) to expand the Buddha
Dharma. He also translated many sutras from Sanskrit into Chinese such as
the Infinite Life Sutra, the Anapanasati Sutra, etc. He passed away in
around 280 A.D.
Khưu:
1) Gò
đất: A mound—A plot.
2) Tên
riêng của Đức Khổng Phu Tử: Personal name of Confucius.
Khưu Tĩnh: Một cái giếng khô
trên đỉnh đồi, biểu trưng cho tuổi già—A dry well on a hill top,
symbolical of old age.
Kleang: Tên một ngôi chùa tọa
lạc trong thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, Nam Việt Nam. Chùa được xây
cất từ năm 1533 và được trùng tu nhiều lần. Ngôi chánh điện được trùng tu
cách đây 80 năm. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng của thị xã
Sóc Trăng—Name of a temple, located in Sóc Trăng town, Sóc Trăng province,
South Vietnam. The temple was built in 1533 and has been restored many
times. The main hall was restored 80 years ago. This is one of the most
ancient famous temples of Soc Trăng town.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006